Vũ khí Thổ Nhĩ Kỳ trỗi dậy ở Đông Nam Á: Ngẫu nhiên hay chiến lược?

Thỏa thuận mua bán vũ khí với Thổ Nhĩ Kỳ và hoạt động triển khai của Indonesia, Malaysia cùng Philippines đang tạo nên làn sóng mới tại khu vực Đông Nam Á.

Thổ Nhĩ Kỳ dần trở thành nhà cung cấp mới trong lĩnh vực quốc phòng đối với nhiều quốc gia Đông Nam Á, điển hình là Indonesia, Malaysia và Philippines - những quốc gia từng phụ thuộc vào hệ thống vũ khí do phương Tây sản xuất.

Nhiều nhà phân tích cho rằng sự hội tụ của nhiều yếu tố khiến vũ khí của Thổ Nhĩ Kỳ trở nên hấp dẫn. Bao gồm giá cả phải chăng, nền tảng sẵn sàng chiến đấu đi kèm với lợi ích bổ sung từ việc chuyển giao công nghệ, chương trình hợp tác sản xuất và ít ràng buộc chính trị hơn khi Ankara tìm kiếm mở rộng thị trường.

Cặp tiêm kích F-16 của Thổ Nhĩ Kỳ. (Ảnh: USAF)

Cặp tiêm kích F-16 của Thổ Nhĩ Kỳ. (Ảnh: USAF)

Mở rộng toàn cầu

Theo Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm - viện nghiên cứu quốc tế độc lập chuyên nghiên cứu về xung đột, thị phần vũ khí của Thổ Nhĩ Kỳ trong kim ngạch xuất khẩu toàn cầu tăng từ 0,8% từ năm 2015 - 2019 và lên 1,7% từ năm 2020 - 2024.

5 quốc gia xuất khẩu vũ khí lớn nhất trong giai đoạn 2020 - 2024 là Mỹ, Pháp, Nga, Trung Quốc và Đức, chiếm 72% tổng kim ngạch xuất khẩu vũ khí toàn cầu.

Ngành công nghiệp vũ khí của Thổ Nhĩ Kỳ có sự tăng trưởng bùng nổ trong thập kỷ qua với kim ngạch xuất khẩu tăng vọt từ 1,6 tỷ USD năm 2013 lên mức kỷ lục 7,2 tỷ USD vào năm 2024 khi nước này đặt mục tiêu trở thành cường quốc quốc phòng toàn cầu và là đối tác quan trọng cho những quốc gia muốn đa dạng hóa hoạt động mua sắm quân sự. Và gần đây, nhiều nước Đông Nam Á cũng tham gia vào cuộc thảo luận đó.

Hồi tháng 2, Indonesia ký thỏa thuận mua 60 UAV Bayraktar TB3 và 9 UAV Akinci từ Baykar của Thổ Nhĩ Kỳ, bao gồm việc thành lập liên doanh với công ty Republikorp của Indonesia để xây dựng nhà máy sản xuất máy bay không người lái tại quần đảo này.

Đến tháng 7, Indonesia ký hợp đồng đóng hai tàu khu trục tàng hình lớp Istif từ tập đoàn đóng tàu TAIS của Thổ Nhĩ Kỳ. Cùng tháng đó, Indonesia ký "hợp đồng triển khai" mua 48 máy bay chiến đấu KAAN từ Thổ Nhĩ Kỳ.

Mặc dù chi tiết tài chính không được công bố, nhưng có thông tin cho rằng hợp đồng này có giá trị 10 tỷ USD, một trong những hợp đồng quốc phòng lớn nhất từ ​​trước đến nay mà Indonesia ký kết.

Tờ Jakarta Globe dẫn lời Bộ Quốc phòng Indonesia đưa tin: "Indonesia không chỉ đảm bảo thiết bị quân sự công nghệ cao mà còn có những cơ hội đáng kể trong việc phát triển năng lực của ngành công nghiệp quốc phòng trong nước".

Kế hoạch mua máy bay KAAN của Indonesia là một phần trong đơn đặt hàng 42 máy bay chiến đấu Rafale do Pháp sản xuất trị giá 8,1 tỷ USD, 24 máy bay chiến đấu của Boeing và 24 máy bay trực thăng vận tải của Lockheed Martin tại Mỹ.

Hồi tháng 8, nhiều blog quốc phòng xôn xao trước báo cáo về việc Indonesia triển khai hệ thống tên lửa đạn đạo KHAN - một nền tảng có tầm bắn 280km do nhà sản xuất vũ khí Roketsan của Thổ Nhĩ Kỳ phát triển tại Tenggarong ở Đông Kalimantan.

Hệ thống tên lửa đạn đạo KHAN. (Ảnh: Roketsan)

Hệ thống tên lửa đạn đạo KHAN. (Ảnh: Roketsan)

Điều này khiến Indonesia trở thành quốc gia đầu tiên ở Đông Nam Á vận hành công khai hệ thống đạn đạo chiến thuật hiện đại như vậy. Phó Tổng giám đốc Roketsan Murat Kurtulus tiết lộ Indonesia đặt hàng tên lửa KHAN vào hồi tháng 11/2022, trở thành lực lượng quân sự đầu tiên bên ngoài Thổ Nhĩ Kỳ sở hữu tên lửa.

Trong khi đó, chương trình Tàu tác chiến ven biển lô 2 của Malaysia đang được tiến hành với ba tàu mới dựa trên thiết kế tàu hộ tống lớp Ada đóng tại Thổ Nhĩ Kỳ.

 

Theo khuôn khổ hợp tác giữa chính phủ với chính phủ, dự án này do công ty quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ STM quản lý và sẽ tích hợp nhiều hệ thống phòng thủ của Thổ Nhĩ Kỳ, bao gồm pháo Aselsan SMASH 30mm và hệ thống tên lửa chống hạm Roketsan Atmaca.

Malaysia cũng mua máy bay không người lái ANKA-S MALE, dự kiến ​​sử dụng tại đảo Labuan ngoài khơi Biển Đông.

Bộ trưởng Quốc phòng Malaysia, Mohamed Khaled Nordin cho biết việc chuyển giao công nghệ là rất quan trọng để phát triển ngành công nghiệp quốc phòng của Malaysia, do nhiều công ty trong nước dẫn đầu, đặc biệt là trong lĩnh vực như hệ thống quản lý, bảo trì, sửa chữa và đại tu vũ khí hải quân, vận hành UAV.

Tương tự, Philippines nhận được 6 máy bay trực thăng tấn công T129 ATAK do Thổ Nhĩ Kỳ sản xuất, cặp cuối cùng được đưa vào sử dụng vào tháng 5/2024. Có thông tin cho rằng Philippines từng ký thỏa thuận trị giá 270 triệu USD vào năm 2020.

Động lực thúc đẩy chuyển đổi

Ông Abduld Rahman Yaakob, nghiên cứu viên tại Chương trình Đông Nam Á, Viện Lowy cho biết trong trường hợp của Indonesia, lệnh cấm vận vũ khí của Mỹ từ năm 1999 đến năm 2005 tác động đến tư duy chiến lược của quốc gia Đông Nam Á này.

"Đối với Indonesia, việc đa dạng hóa nhà cung cấp vũ khí là chiến lược quan trọng để đảm bảo họ có nguồn cung cấp vũ khí ổn định và an toàn,đồng thời không phụ thuộc vào thế lực cụ thể”, Rahman nói.

Tương tự, Thổ Nhĩ Kỳ đang hợp tác với Malaysia để chuyển giao công nghệ quân sự trong lĩnh vực hệ thống quản lý cũng như bảo trì, sửa chữa và đại tu vũ khí hải quân. Ông Rahman lập luận chi phí là yếu tố quan trọng khác. Malaysia và Indonesia có ngân sách quốc phòng hạn chế và nhiều hệ thống vũ khí rất tốn kém.

Trực thăng tấn công T129 ATAK. (Ảnh: Turkish Aerospace Industries)

Trực thăng tấn công T129 ATAK. (Ảnh: Turkish Aerospace Industries)

Trong khi đó, nền tảng của Thổ Nhĩ Kỳ - đặc biệt là máy bay không người lái Bayraktar TB2 ước tính có giá khoảng 5 triệu USD/chiếc. Con số này rẻ hơn đáng kể so với máy bay MQ-9 Reaper của Mỹ, được cho là có giá 30 triệu USD/chiếc.

Nhà phân tích quốc phòng Lam Choong Wah của Đại học Malaya cũng nhấn mạnh Malaysia đang hướng đến Thổ Nhĩ Kỳ vì những lợi ích chính trị, viện dẫn tình bạn giữa Thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim và Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan.

“Đối với Malaysia, còn có thêm yếu tố tin cậy chính trị và bản sắc tôn giáo chung, giúp củng cố mối quan hệ lâu dài. Mối quan hệ chính trị là lý do chính cho mọi thỏa thuận vũ khí”, ông Wah nói với CNA.

Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích đã chỉ ra một số mối lo ngại chính có thể làm phức tạp quá trình tích hợp lâu dài và khả năng sẵn sàng hoạt động. Nhà phân tích quân sự Khairul tuyên bố thách thức chính đối với Indonesia và Malaysia là việc tích hợp nền tảng mới vào kho vũ khí đang rất đa dạng, bao gồm thiết bị quốc phòng của phương Tây, Nga và Trung Quốc.

Ông Rahman đồng tình với quan điểm này và cho biết Indonesia có thể đối mặt với những vấn đề quan trọng trong việc tích hợp và bảo trì các hệ thống mới. Đồng thời, ông đặt câu hỏi về cách máy bay KAAN sẽ hoạt động như thế nào với máy bay Sukhoi Su-30 của Nga và máy bay F-16 của Mỹ mà Không quân Indonesia vẫn đang sử dụng.

Ông lưu ý thêm một vấn đề khác có thể phát sinh là chi phí bảo trì, vì những ngân sách này thường bị Malaysia và Indonesia bỏ qua. “Nhiều máy bay hoặc nền tảng đắt tiền thậm chí không thể hoạt động tối ưu trong thời gian dài nếu chúng không được bảo trì tốt”, ông Rahman nhấn mạnh.

Trong khi đó, ông Wah cho hay một yếu tố khác cần cân nhắc khi nói đến việc bảo trì là những bộ phận quan trọng trong vũ khí của Thổ Nhĩ Kỳ, chẳng hạn như hệ thống điện tử hàng không, động cơ và hệ thống radar vẫn phụ thuộc vào nhà cung cấp từ Mỹ, Anh và châu Âu.

https://vtcnews.vn/vu-khi-tho-nhi-ky-troi-day-o-dong-nam-a-ngau-nhien-hay-chien-luoc-ar967072.html

Kông Anh(Nguồn: Channel News Asia) / VTC News