Moscow không nên đối phó với các biện pháp trừng phạt của Washington mà chỉ nên ứng phó, đặc biệt là cần tránh việc kinh tế hoá chính trị như Mỹ...
Reuters ngày 7/8 đưa tin, Thứ trưởng Ngoại giao Sergei Ryabkov vừa cho biết chính phủ Nga sẽ tăng tốc độ làm giảm sự phụ thuộc vào hệ thống thanh toán của Mỹ và đồng USD trong việc giải quyết nhu cầu trong các hoạt động tài chính – thương mại.
"Chúng tôi sẽ tăng cường các hoạt động nhằm thay thế hàng nhập khẩu, giảm sự phụ thuộc vào hệ thống thanh toán của Mỹ và đồng USD.
Nếu không thay đổi, chúng tôi sẽ luôn ngồi đòn bập bênh của Mỹ, phục vụ cho lợi ích của họ", ông Ryabkov lý giải.
Chính phủ Nga đã đưa ra một hệ thống thanh toán quốc gia mới - gọi là Mir - để giảm sự phụ thuộc vào các hệ thống thanh toán của phương Tây như Visa và MasterCard, sau khi các nhà khai thác ngừng cung cấp dịch vụ này cho khách hàng Nga, nhằm tuân thủ các biện pháp trừng phạt Nga của Mỹ.
Thứ trưởng Ngoại giao Sergei Ryabkov |
Thẻ Mir được phát hành ở Nga, không có các yếu tố bên ngoài và theo số liệu của Hệ thống Thanh toán Quốc gia Nga (NSPK), đến nay đã có hơn 13,9 triệu thẻ Mir được phát hành ở Nga, hay khoảng 10% dân số cả nước.
"Hơn 380 ngân hàng tại Nga chấp nhận thẻ Mir. Tất cả các điểm thương mại và dịch vụ, bao gồm quán cà phê, cửa hàng, nhà hàng và trạm xăng đều chấp nhận thanh toán bằng thẻ Mir. Thẻ Mir cũng được chào đón tại Crimea, nơi ngân hàng phương Tây bị cấm hoạt động", theo Reuters.
Đây được xem là phản ứng mới nhất của Moscow đối với luật trừng phạt Nga của Washington mà Tổng thống Donald Trump vào tuần trước đã phải miễn cưỡng ký ban hành. Luật trừng phạt nhắm vào ngành năng lượng của Nga, với những giới hạn mới về đầu tư của Mỹ vào các công ty của Nga.
Theo giới phân tích, hành động mới nhất này chỉ là một quyết định bất đắc dĩ của Moscow, nó như một giải pháp tạm thời nhằm tạo ra một hàng rào bảo vệ nền kinh tế Nga trước nguy cơ Mỹ có thể sử dụng các công cụ tài chính nguy hại, mà có thể đưa kinh tế Nga rơi vào cảnh “1 bước lùi dài hơn 3 bước tiến”.
Tuy nhiên, đây được xem là biện pháp “kinh tế hoá chính trị” - Moscow chọn mặt đối mặt với Washington, trong bối cảnh tiểm lực kinh tế Nga còn rất nhỏ so với kinh tế Mỹ và lợi ích kinh tế trong quan hệ Nga - Mỹ cũng rất nhỏ - khiến cho hành động của Moscow trở nên quá mạo hiểm.
Thứ nhất, các thực thể kinh tế của Nga, nền kinh tế của nước Nga bị mất đi nhiều cơ hội, lợi ích sau quyết định của chính phủ Nga
Phải thấy rằng, việc đồng USD là một phương tiện thanh toán phổ biến trong hệ thống thanh toán quốc tế do nhiều nguyên nhân chứ không chỉ đơn thuần là sức mạnh kinh tế Mỹ cũng như tác hiệu từ các công cụ tài chính của chính phủ Mỹ.
Sau hơn 70 Bretton Woods - một hệ thống tài chính bao gồm Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) và chế độ tỷ giá hối đoái cố định được xây dựng quanh đồng USD - ra đời (năm 1944) cho đến nay, việc sử dụng đồng USD cho thanh toán đã trở thành tập quán trong hoạt động thương mại và tài chính quốc tế.
Cho dù Kế hoạch Marshall tái thiết Châu Âu đã tạo điều kiện cho nhiều ngoại tệ mạnh khẳng định vị thế trong hệ thống dự trữ và thanh toán quốc tế như bảng Anh (GBP), mác Đức (DM), franc Pháp (FRF), rồi đồng euro (EUR) ra đời cũng không làm thay đổi tập quán “thích” USD.
Cũng như vậy, khi kinh tế Nhật, rồi sau này là kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng và cạnh tranh mạnh mẽ với kinh tế Mỹ, song đồng yên Nhật (JPY) hay đồng nhân dân tệ (CNY) cũng không khiến cho đồng USD bị cạnh tranh bao nhiêu trong hệ thống dự trữ và thanh toán quốc tế.
Trước nghị quyết của Hội đồng Tổng Giám đốc IMF ngày 30/11/2015 và chính thức có hiệu lực từ ngày 1/10/2016, tỷ trọng của 4 đồng ngoại tệ mạnh trong giỏ tiền tệ quốc tế - hệ thống dự trữ quốc tế - là đô la Mỹ, euro, bảng Anh và yên Nhật lần lượt là 41,9%, 37,4%, 11,3% và 9,4%.
Sử dụng đồng USD đã trở thành tập quán trong thương mại quốc tế |
Còn sau ngày 1/10/2016 tỷ trọng của 5 đồng ngoại tệ mạnh trong hệ thống dự trữ quốc tế thay đổi như sau: đô la Mỹ là 41,73%, euro là 30,98%, nhân dân tệ là 10,92%, yên Nhật là 8,33% và bảng Anh là 8,09%.
Tuy nhiên, theo Bloomberg, thanh toán bằng đồng USD vẫn chiếm tới 44,8% giao dịch trong hoạt động thương mại quốc tế, đó là chưa tính đến những giao dịch tiểu ngạch không thể kiểm soát. Do đó, nếu tính tất cả thì tỷ lệ sử dụng đồng USD có thể chiếm tới 60% trong hoạt động thanh toán thương mại toàn cầu.
Điều đó cho thấy, việc sử dụng đồng USD cho thanh toán của một thực thế kinh tế không còn phụ thuộc vào việc thực thể kinh tế đó kết nối với hế thống tài chính Mỹ, hay quan hệ với kinh tế Mỹ.
Do vậy, việc Nga giảm sử dụng đồng USD cho hoạt động thanh toán là một lựa chọn bị chi phối bởi yếu tố chính trị, qua đó tự bó mình lại và đồng thời làm mất đi cơ hội cho kinh tế Nga, nhất là trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại.
Giới phân tích cho rằng, chính phủ Nga có thể làm giảm sự phụ thuộc của kinh tế Nga vào “yếu tố Mỹ” qua việc gia tăng các phương tiện thanh toán thay cho tiền mặt và việc xây dựng hệ thống thanh toán quốc gia mang tính độc lập.
Việc phát hành và sử dụng thẻ Mir là một hướng đi phù hợp trong thời cấm vận. Moscow không nên giảm tỷ trọng thanh toán bằng đồng USD trong thời điểm hiện nay, khi lệnh trừng phạt được luật hoá.
Thứ hai, khi giảm phụ thuộc vào USD, kinh tế - tài chính Nga sẽ tăng phụ thuộc vào những đơn vị thanh toán quốc tế khác, khi đó kinh tế Nga còn thiệt hại nhiều hơn
Đồng rúp Nga (RUB) không phải là ngoại tệ mạnh, do vậy hoạt động kinh tế thương mại, kinh tế tài chính, kinh tế dịch vụ của nước Nga sẽ phải phụ thuộc vào 1 trong 5 ngoại tệ mạnh trong giỏ tiền tệ quốc tệ và trong tập quán thanh toán quốc tế.
Khi chính phủ Nga quyết định giảm sự phụ thuộc vào đồng USD thì kinh tế Nga sẽ phụ thuộc vào đồng ngoại tệ nào mà nền tảng giá trị của nó có quan hệ hay tác động mạnh đến kinh tế Nga, trong trường hợp này sẽ là đồng euro và đồng nhân dân tệ.
Có thể thấy rằng, dù Liên minh Châu Âu (EU) cho ra đời khu vực đồng euro - eurozone - nhằm tạo sức mạnh cho đồng tiền này, song đến nay vẫn mới chỉ có 19/28 thành viên EU chọn đồng euro là phương tiện thanh toán của quốc gia mình thay cho đồng nội tệ.
Nếu như Vương quốc Anh không chọn vào eurozone vì không muốn mất đi lợi thế của đồng bảng Anh, nhưng Đan Mạch hay Thuỵ Điển không chọn tham gia eurozone thì chứng tỏ đồng euro vẫn còn rất nhiều hạn chế khiến cho việc phụ thuộc vào đồng ngoại tệ này vẫn không phải là lựa chọn tối ưu cho các thành viên EU.
Đó là điều cảnh báo cho Moscow, nếu từ chối đồng USD để rồi phụ thuộc vào đồng EUR, trong khi EU cũng vẫn liên tục gia hạn cấm vận Nga khiến cho việc phụ thuộc vào đồng EUR càng thêm mạo hiểm.
Kinh tế Trung Quốc dù lớn mạnh, song đồng CNY vẫn còn phụ thuộc vào rất nhiều vào đồng USD |
Trong bối cảnh Mỹ và EU gia tăng trừng phạt kinh tế Nga nên chính phủ Nga phải hướng về Trung Quốc như một đối tác quan trọng là tất yếu. Vì vậy, việc kinh tế tài chính - thương mại Nga phụ thuộc vào đồng CNY là khó có thể tránh khỏi, nhất là khi Moscow từ chối đồng USD.
Khi Moscow để kinh tế Nga phụ thuộc vào đồng CNY thì vấn đề không chỉ là mạo hiểm mà nó trở thành nguy hiểm cho các hoạt động kinh tế tại xứ sở bạch dương.
Bởi lẽ, dù đồng CNY được IMF quy định chiếm 10,92% trong giỏ tiền tệ quốc tế, song điều đó chỉ ý nghĩa trong hệ thống dự trữ - mà cũng không nhiều thực thể kinh tế nâng tỷ trọng CNY trong quỹ dự trữ của mình - còn trong thanh toán quốc tế CNY chỉ chiếm 1,82%, theo Bloomberg.
Khi phụ thuộc vào một phương tiện thanh toán chiếm tỷ trọng quá nhỏ trong hệ thống thanh toán quốc tế, điều đó chẳng khác nào các thực thể kinh tế Nga luôn ở trong tình trạng đi trên dây, vì khi đó kinh tế Nga bị phụ thuộc kép : phụ thuộc vào cả đồng CNY và đồng USD.
Bởi lẽ, cho đến lúc này khả năng quốc tế hoá của đồng CNY còn hạn chế nên nó vẫn phụ thuộc rất lớn vào đồng USD. Chỉ cần qua việc FED thay đổi lãi suất căn bản khiến đồng CNY có thể "mất giá vượt biên độ" đã chứng tỏ điều đó.
Trong khi, nếu kinh tế Nga phụ thuộc CNY, đồng RUB luôn phải chịu tác động của ít nhất hai nghiệp vụ kinh tế phát sinh : RUB → CNY → USD, thay vì chỉ là một nghiệp vụ kinh tế phát sinh : RUB → USD.
Rõ ràng, việc chính phủ Nga có kế hoạch chối bỏ đồng USD là một lựa chọn không chuẩn xác trong việc trả đũa luật trừng phạt của chính quyền Mỹ.
Giới phân tích luôn cho rằng, Moscow không nên đối phó với các biện pháp trừng phạt của Washington mà chỉ nên ứng phó, đặc biệt là cần tránh việc kinh tế hoá chính trị như Mỹ, vì Nga luôn "mất nhiều hơn được” trong mọi trường hợp.