Lá và nụ vối chứa hoạt chất kháng sinh tự nhiên, giúp kháng khuẩn, hỗ trợ tiêu hóa, ổn định đường huyết và giải độc gan.
Theo lương y Bùi Đắc Sáng, Hội Đông y Hà Nội, cây vối có hai loại: vối rừng và vối nhà. Dù khác nguồn gốc, cả hai đều có công dụng dược liệu tương tự, được sử dụng rộng rãi trong Đông y và đời sống hằng ngày.
Lá vối chứa khoảng 4% tinh dầu bay hơi với mùi thơm dễ chịu, có saponin, rất ít tanin cùng nhiều hợp chất khác như axit triterpenic, sterol, chất béo, tanin catechic và gallic.
Những hoạt chất này mang đến khả năng kháng khuẩn tự nhiên với nhiều loại vi khuẩn Gram âm và dương, đặc biệt hoạt tính kháng sinh đạt mức cao nhất vào mùa đông. Đáng chú ý, cây vối không chứa độc tính, an toàn với cơ thể.

Lá và nụ vối chứa hoạt chất kháng sinh tự nhiên. (Ảnh minh hoạ)
Trong y học cổ truyền, vối được xem là vị thuốc tính bình, vị đắng chát, quy kinh tỳ, vị và đại tràng, giúp thanh nhiệt, tiêu đờm, sát trùng, giải độc. Lá và nụ vối thường được nấu nước uống, giúp kích thích tiêu hóa, tiêu thực, lợi tiểu, giảm chướng bụng, cải thiện viêm đại tràng mạn tính, viêm họng và hỗ trợ điều trị các bệnh ngoài da như mụn nhọt, lở loét, ghẻ ngứa.
Lá vối còn có tác dụng ổn định đường huyết, chống oxy hóa, bảo vệ tế bào beta của tuyến tụy – yếu tố quan trọng với người mắc tiểu đường. Ngoài ra, nước lá vối giúp phòng ngừa đục thủy tinh thể, giảm mỡ máu, hỗ trợ điều trị gout và gan nhiễm mỡ.
Người dùng có thể sử dụng lá vối tươi hoặc khô. Mỗi ngày, dùng khoảng 5-7 lá tươi nấu với nước như trà. Với lá khô, liều dùng hợp lý là 7-8 gram/ngày, bảo quản nơi khô ráo, thoáng mát để tránh ẩm mốc, mối mọt.
Tuy nhiên, lương y Sáng khuyến cáo không nên uống nước vối thay nước lọc hoặc để qua đêm. Việc uống quá nhiều sau bữa ăn có thể làm loãng dịch tiêu hóa, giảm hấp thu dưỡng chất. Người mất ngủ hoặc có hệ tiêu hóa yếu cũng nên hạn chế, tránh gây tiêu chảy, buồn nôn hoặc chóng mặt.