Tháng 1/1974, Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa. Sau gần nửa thế kỷ, nỗi buồn của biển và người không nguôi đi, mà còn nhân lên gấp bội.
"Rất đông lính Trung Quốc nhảy lên tàu mình, chúng cướp lái rồi đánh mình tới tấp bằng dùi cui", Hải nhớ lại. Đến khi người thuyền trưởng của tàu QNg 90205 ngất xỉu, lũ người này vẫn hung hăng đập vỡ cửa kính, máy ICom, máy dò và thiết bị trên tàu.
Trong lúc lùng sục boong tàu thu cá, hút dầu, chúng phát hiện thủy thủ Lê Anh, lại dùng dùi cui vụt mạnh vào đầu, đá thốc vào bụng, hông... cho đến khi anh mềm nhũn.
Hồi tỉnh lúc tờ mờ sáng, thuyền trưởng Hải nghe toàn thân đau đớn, lúc nóng ran khi lạnh toát, các anh em đang trên đường đưa mình và Lê Anh vào bờ. Lúc đó những chỗ bị đánh đã tím tái, Hải thấy đau đầu, buồn nôn nhưng vẫn húp được chút cháo, còn Lê Anh thì đã nằm bất động. Đó là một ngày giữa tháng 5 năm 2014.
"Hoàng Sa là của ông bà mình nhưng Trung Quốc nó chiếm mất rồi", các lão ngư ngày ấy nói với Hải trước chuyến ra khơi. Từ tấm bé, cũng như những đứa trẻ lớn ở xóm biển Gành Cá, Hải đã biết đến Hoàng Sa qua lời kể của mẹ. "Cha đi biển ở Hoàng Sa", lời mẹ nói vẫn còn trong ký ức.
Làng biển của Hải ở xã Bình Châu, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi, nổi tiếng với nghề lặn đêm. 15 tuổi, chàng thiếu niên đã ra khơi. Qua hàng chục hải trình, chàng ngư dân trở nên cứng cáp, rồi được chọn vào đội đi tàu ra Hoàng Sa đánh bắt.
16 tuổi, Hải đã chạm vào Hoàng Sa như chạm vào một phần máu thịt của quê hương bị chia lìa. Vượt qua sóng, gió và cả một cơn đột quỵ suýt tàn phế vì áp suất khi lặn, đến năm 2012, Hải được người chú giao tàu. Anh trở thành thuyền trưởng.
Niềm tin được ký thác, chàng thuyền trưởng trẻ đầy bản lĩnh chống chọi với sóng gió, cùng anh em và bạn tàu bình yên vô sự suốt hai năm sau đó. "Trung Quốc nó đuổi thì mình chạy mà nó hết đuổi thì mình làm tiếp". Sự vô tư về chủ quyền của người ngư phủ chỉ thay đổi từ khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981, tháng 5/2014.
Cảng cá Tịnh Kỳ, thành phố Quảng Ngãi ngày 18/5/2014 đông đúc hơn mọi ngày. Là nơi đặt đồn Biên phòng, Tịnh Kỳ ngày thường nhộn nhịp những chuyến tàu ra vào khai báo, rôm rả tiếng cười đùa của những phụ nữ phơi cá. Nhưng hôm ấy chỉ có những gương mặt âu lo.
Những ngày trước đó, từ khi hạ đặt giàn khoan trong lãnh hải Việt Nam, các tàu Trung Quốc đã xịt vòi rồng, rượt đuổi, đâm va nhiều tàu cá của ngư dân. Và ngày 16/5, xóm Gành Cá nhận tin dữ: tàu của thuyền trưởng Nguyễn Tấn Hải bị tấn công.
Bà Đặng Thị Thơm đến cảng từ sáng sớm, bồn chồn, đứng ngồi không yên chờ tàu về. Cứ mỗi lần có một tàu cập cảng, bà cùng dòng người ùa ra đón. Nhưng lần lượt bốn chiếc tàu đều không phải 90205 của con trai, bà càng thêm nóng ruột.
Đến trưa, khi tàu 90205 cập bến. Thấy con được khiêng ra khỏi tàu, bà Thơm khóc nức nở. Quanh bà, người thân của những thuyền viên khác cũng không kìm được tiếng khóc. Hải và bạn thuyền Lê Anh được đưa đi cấp cứu ở Bệnh viện Đa khoa Quảng Ngãi. Hải bị thương nặng ở cánh tay, còn Lê Anh bị thương nặng ở ngực và hông. Cả hai đều có những vết thương ở đầu.
Đã 5 năm trôi qua, lần bị Trung Quốc đánh đập vẫn còn in đậm trong tâm trí Hải. Anh nhớ lại. Đêm đó, anh em chia làm hai sà lan xuống biển lặn bắt hải sâm, chỉ còn Hải và Lê Anh ở lại tàu. Giữa đêm đen, tàu Trung Quốc to gấp 5 lần tàu Hải bất ngờ áp sát, rượt đuổi.
Những ngày tháng 5 ấy đánh dấu một bước ngoặt đen tối trong cuộc đời những người Việt Nam kiếm ăn ở ngư trường Hoàng Sa. Sau thời điểm đó, Trung Quốc bắt đầu đẩy mạnh các hành vi côn đồ trên vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Nghề đi biển của một dải miền Trung lao đao.
"Nhiều người dân hỏi tôi đã đi Hoàng Sa chưa? Câu hỏi như kim đâm vào da thịt. Làm sao đi được khi lãnh thổ của chúng ta đang bị Trung Quốc chiếm đóng", ông Đặng Công Ngữ xa xót trước khi nghỉ hưu.
1.835 ngày giữ chức Chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa, thuộc thành phố Đà Nẵng, ông Ngữ chưa một lần "xuống địa bàn".
Quần đảo Hoàng Sa nằm phía Đông của Việt Nam, ngang bờ biển các tỉnh từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi. Trong đó đảo Tri Tôn cách Cù Lao Ré, tỉnh Quảng Ngãi 123 hải lý - 228 km. Tổng diện tích của cả quần đảo khoảng 10 km2.
Vùng biển Hoàng Sa có tiềm năng lớn về khoáng sản và hải sản. Quan trọng hơn, với việc án ngữ đường hàng hải quốc tế huyết mạch từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương, đây còn là vị trí quân sự chiến lược, khống chế đường giao thông trên biển và trên không khu vực phía bắc Biển Đông.
Với ngư dân, Hoàng Sa từ nhiều thế hệ là nguồn sống. Mùa biển lặng, ngư dân lợi dụng sức gió để căng buồm ra khơi đánh bắt. Không bắt được hải sản, họ cũng có thể lấy san hô, vỏ ốc về bờ bán cho khách du lịch; tách gân ốc tai tượng bán cho thương lái làm thuốc, chế biến thức ăn.
Nửa đầu thế kỷ XVII, dù phương tiện còn thô sơ, nhưng chúa Nguyễn đã lập Đội Hoàng Sa kiêm quản Đội Bắc Hải, vượt sóng gió ra đảo đo vẽ bản đồ, cắm mốc chủ quyền, bảo vệ cương giới nước nhà tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đời vua Minh Mạng, bia chủ quyền được dựng vào năm 1834.
Dưới thời Pháp thuộc, từ 1884 đến 1945, với tư cách đại diện cho Việt Nam về đối ngoại, Cộng hoà Pháp tiếp tục khẳng định, quản lý và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa.
Năm 1959, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa cho một số lính đóng giả ngư dân bí mật đổ bộ lên các đảo Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Hoà nhằm đánh chiếm nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa. Quân lực Việt Nam Cộng hoà phát hiện bắt giữ 82 "ngư dân" cùng 5 thuyền đánh cá vũ trang đưa về giam tại Đà Nẵng, sau đó trao trả cho Trung Quốc.
Ngoài việc bố phòng binh lính để canh giữ Hoàng Sa, chính quyền Việt Nam Cộng hoà còn cho nghiên cứu thuỷ văn, khai thác phốt phát, sáp nhập quần đảo Hoàng Sa vào thành một đơn vị hành chính của tỉnh Quảng Nam. Ở các hoạt động đối ngoại, Việt Nam Cộng hoà đều khẳng định chủ quyền tại hai quần đảo trên biển Đông.
Sau nhiều lần phải rút quân khỏi Hoàng Sa, ngày 15/1/1974, Trung Quốc chủ động gây hấn bằng việc tuyến bố lên án chính quyền Việt Nam Cộng hoà đã "xâm lấn đất đai của Trung Quốc", và khẳng định "tất cả các quần đảo Nam Sa, Tây Sa, Đông Sa và Trung Sa là lãnh thổ Trung Quốc".
Quân đội nước này được lệnh đổ bộ và cắm cờ Trung Quốc lên các đảo Hữu Nhật, Quang Ảnh, Quang Hoà và Duy Mộng thuộc nhóm đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa.
Sáng 19/1/1974, khi người nhái Việt Nam Cộng hoà cùng lính biệt hải lên các đảo hạ cờ Trung Quốc, nhiều loạt đạn từ phía Trung Quốc vang lên. Hai người bị bắn gục.
Hơn 10h, pháo trên tàu của hai phía đồng loạt nã vào nhau ở cự ly khoảng 100 m. Sự kiện thường được gọi với cái tên "Hải chiến Hoàng Sa" bắt đầu.
Trong trận hải chiến này, Hải quân Việt Nam Cộng hoà điều ra Hoàng Sa bốn chiến hạm. Vũ khí trên tàu khá lạc hậu ở thời điểm bấy giờ, chủ yếu chỉ có pháo 76,2 ly với tốc độ bắn chậm, điều chỉnh bằng tay, số ít hoả lực chống ngầm, đại bác 20 ly, tiểu liên... Phía Trung Quốc ngoài bốn chiến hạm còn có hai tàu ngầm loại Romeo Class S033 282 và 289. Không chỉ vượt trội về quân số, vũ khí cũng được trang bị pháo 100 ly, giàn phóng rocket, ống phóng ngư lôi...
Nhiều binh lính Việt Nam Cộng hoà đã hy sinh hoặc bị bắt làm tù binh. Số còn lại phải rút lui về Đà Nẵng. Toàn bộ quần đảo Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc.
Ngày 20/1/1974, Ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc đã thông báo tình hình quần đảo Hoàng Sa cho Martin - Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, và yêu cầu nước này cho biết sẽ dành cho Việt Nam Cộng hoà sự ủng hộ nào về vật chất, chính trị với tư cách là quốc gia đã ký kết bảo đảm cho Hiệp định Paris.
Thời điểm này, cuộc chiến của Mỹ ở ba nước Đông Dương đã đến hồi kết. Dù lực lượng hải quân hùng mạnh với hàng không mẫu hạm vẫn túc trực ở biển Đông, phía Mỹ im lặng.
Tháng 4/1975, đất nước thống nhất. Ở ngoài khơi, Hoàng Sa vẫn bị quân Trung Quốc chiếm giữ. Còn Trường Sa đã được bộ đội Việt Nam tiếp quản một phần.
Tại cuộc đàm phán về biên giới giữa Hà Nội và Bắc Kinh tháng 10/1977, Trưởng đoàn Việt Nam Phan Hiền đã bác bỏ vu cáo của phía Trung Quốc đối với việc Hải quân Nhân dân Việt Nam đã tiếp quản các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, và tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy nhiên đề nghị đưa vấn đề hai quần đảo này vào chương trình nghị sự đã bị đối phương từ chối.
Ngày 11/12/1982, Chính phủ Việt Nam quyết định thành lập huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Và kể từ đó, là hơn hai mươi năm của những cán bộ cấp huyện không thể đặt chân lên vùng đất mình quản lý, như ông Ngữ.
Cách nơi hạ giàn khoan khoảng 17 hải lý, ngày 26/5/2014, tàu cá ĐNa 90152TS của vợ chồng bà Huỳnh Thị Như Hoa và ông Trần Văn Bốn ở Đà Nẵng bị tàu vỏ sắt của Trung Quốc tông chìm
Các tàu Trung Quốc sau đó đã ngăn cản việc ngư dân Việt cứu người. 10 ngư dân may mắn sống sót, nhưng con tàu hư hỏng hằn nguyên vết đâm chí mạng bên mạn trái. Trung Quốc phủ nhận chuyện này và cho rằng tàu cá Việt Nam đã tự lật sau khi cố đâm vào tàu Trung Quốc.
Khi đoạn video được truyền thông Việt Nam công bố, Trung Quốc đã im lặng. Lần này, không còn từ "tàu lạ", mà cả số hiệu tàu cũng được ngư dân trên các tàu cùng biên đội với ĐNa 90152TS ghi lại. Đó là những con tàu đến từ Trung Quốc.
Trung Quốc âm mưu thôn tính Hoàng Sa từ Hội nghị Geneva 1954?
Ngày 19/1/2019 là tròn 45 năm kể từ khi Trung Quốc xâm lược nốt nửa phía Tây quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. |
Thôn tính Hoàng Sa, nước cờ đầu tiên của Trung Quốc nhằm độc chiếm Biển Đông
Cách đây 45 năm, sau "cú bắt tay Thượng Hải" năm 1972 và lợi dụng tình thế quân đội Mỹ buộc phải rút khỏi Niềm ... |
Bối cảnh và diễn biến Hải chiến Hoàng Sa 1974
Ngày 11/01/1974, các sĩ quan Nam Việt Nam nhận được báo cáo về những động thái của Trung Quốc trên hai hòn đảo của Nam ... |
45 năm Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa của Việt Nam: Mưu đồ độc chiếm Biển Đông
Trung Quốc đã có hàng loạt hành động phi pháp để phục vụ mục tiêu độc chiếm Biển Đông kể từ khi ngang ngược chiếm ... |