Xếp thứ 3 thế giới, quả vải Việt vẫn yếu thế vì chế biến kém

Việt Nam là nước có diện tích nhãn, vải lớn thứ 3 thế giới, sau Trung Quốc và Ấn Độ nhưng do chưa đẩy mạnh chế biến sâu nên giá trị gia tăng của loại quả này chưa đạt được như kỳ vọng. Cho đến nay, mới có khoảng 10% sản lượng nhãn, vải được chế biến.

Đứng thứ ba thế giới về sản lượng

Theo thống kê, trên thế giới có khoảng 20 quốc gia đang trồng vải, trong đó, đứng đầu là Trung Quốc với hơn 2 triệu tấn/năm, thứ hai là Ấn Độ với 677.000 tấn/năm, Việt Nam đang xếp thứ 3 với khoảng 380.000 tấn/năm, tiếp theo là Thái Lan với khoảng 48.000 tấn/năm, Bangladesh hơn 12.000 tấn/năm.

Trung Quốc hiện là nước sản xuất vải lớn nhất thế giới, đồng thời cũng là nước vừa nhập khẩu, vừa xuất khẩu vải, với thị phần xuất khẩu chiếm khoảng 18% thị trường thế giới.

Trong khi đó, quốc gia xuất khẩu vải lớn nhất thế giới hiện nay không phải là những nước có diện tích sản xuất lớn nhất như Trung Quốc, Ấn Độ... mà thuộc về Madagascar khi chiếm tới 35% thị phần vải xuất khẩu thế giới, Việt Nam chiếm vị trí thứ hai với 19% thị phần, Trung Quốc chiếm 18%, Thái Lan 10%.

 
xep thu 3 the gioi qua vai viet van yeu the vi che bien kem

Vải thiều Việt Nam thuộc loại ngon nhất thế giới. Ảnh: T.L

Nhờ đẩy mạnh áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, chất lượng nhãn, vải của Việt Nam được đánh giá thuộc loại tốt nhất thế giới. Đơn cử như tại Bắc Giang, hiện địa phương này có trên 28.000ha vải, sản lượng trên 90.000 tấn/năm.

Ông Nguyễn Viết Toàn - Phó Giám đốc Sở NNPTNT tỉnh Bắc Giang cho biết: Thương hiệu vải thiều Lục Ngạn đã xuất khẩu và có mặt tại các thị trường như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh, Pháp, Australia, các nước Đông Nam Á... đang được bảo hộ nhãn hiệu tại 8 quốc gia là Trung Quốc, Mỹ, Nhật, Australia, Hàn Quốc, Singapore, Lào, Campuchia.

“Để đáp ứng yêu cầu của thị trường xuất khẩu, năm 2019, huyện Lục Ngạn đã có 18 mã số vùng trồng phục vụ xuất khẩu sang Mỹ; 36 mã số vùng trồng để đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc. Năm nay, dự báo tổng sản lượng vải thiều Lục Ngạn đạt khoảng 80.000 tấn, trong đó, vải chín sớm khoảng 13.000 tấn, vải thiều chính vụ khoảng 67.000 tấn. Nhờ sản lượng ổn định, chất lượng, mẫu mã sản phẩm được đánh giá tốt hơn hẳn so với năm trước. Giá vải tại Lục Ngạn dao động bình quân ở mức 30.000 - 40.000 đồng/kg, có thời điểm khoảng 60.000 đồng/kg” - ông Toàn cho biết thêm.

10% sản lượng được chế biến - con số nhỏ bé

Theo đánh giá của Bộ NNPTNT, nhãn, vải là các cây ăn quả quan trọng, đang đóng góp đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu rau, quả của Việt Nam trong những năm gần đây. Nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật đã đươc đưa vào áp dụng trong sản xuất các loại quả đặc sản này của Việt Nam. Tuy nhiên, vải, nhãn của Việt Nam cũng đang gặp một số khó khăn về kỹ thuật canh tác, công nghệ sau thu hoạch và thị trường tiêu thụ.

Năm 2018, diện tích vải, nhãn, chôm chôm của Việt Nam đạt 160.000ha

Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 324,4 triệu USD chiếm 10,4% của tổng kim ngạch xuất khẩu các loại hoa quả

Thứ trưởng Bộ NNPTNT Lê Quốc Doanh nhấn mạnh, nhãn, vải và một số loại quả thuộc họ bồ hòn đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, năm 2018, diện tích vải, nhãn và chôm chôm đạt 160.000ha, tương đương 16,1% tổng diện tích các loài cây ăn quả.

Với nhu cầu sử dụng các loại hoa quả tươi và chế biến ngày một tăng cao trên thị trường quốc tế, đây chính là triển vọng lớn cho sản xuất quả vải, nhãn và một số loài cây thuộc họ bồ hòn tại Việt Nam...

“Tại Việt Nam, năm 2018, kim ngạch xuất khẩu của của vải, nhãn và chôm chôm ước đạt 324,4 triệu USD, chiếm 10,4% của tổng kim ngạch xuất khẩu các loại hoa quả. Đây cũng là 3/10 loại quả nằm trong chương trình tái cơ cấu nông nghiệp” - ông Doanh nói.

GS.TS Hoàng Thị Lệ Hằng - Phó Viện trưởng Nghiên cứu rau, quả cho biết, hiện chất lượng quả vải của nước ta được đánh giá tốt nhất so với các nước như Ấn Độ, Trung Quốc... Tuy nhiên, hiện quả vải của Việt Nam đang chịu áp lực lớn về phí vận chuyển.

Theo ông Nguyễn Quốc Hùng - Viện trưởng Viện Nghiên cứu rau quả, hiện nay, sản phẩm nhãn, vải chế biến chỉ chiếm 10% tổng sản lượng sản phẩm, tiêu thụ chủ yếu vẫn là sản phẩm tươi. Sản phẩm tươi sẽ luôn phải chịu yêu cầu khắt khe về chất lượng truy xuất nguồn gốc, kiểm dịch của các thị trường nhập khẩu. Điển hình như thị trường Trung Quốc ngày càng thắt chặt trong việc kiểm dịch, dán nhãn, truy xuất nguồn gốc. Do đó, chúng ta phải luôn cập nhật và nghiêm túc thực hiện các yêu cầu để sản phẩm vào được các thị trường.

Sản phẩm chế biến không phải kiểm dịch nhưng đòi hỏi phải có các doanh nghiệp đầu tư để có thể chế biến sâu cũng như việc tiếp thị để thị trường quen với sản phẩm từ nhãn, vải.

“Nhãn, vải Việt Nam chỉ chiếm một phần rất nhỏ so với sản lượng của Trung Quốc. Tuy nhiên, do thời vụ thu hoạch, chất lượng giống của các nước khác nhau nên chúng ta hoàn toàn có cơ hội đưa sản phẩm nhãn, vải của Việt Nam vào thị trường thế giới” - ông Nguyễn Quốc Hùng thêm cho biết.

xep thu 3 the gioi qua vai viet van yeu the vi che bien kem Lại giải cứu thanh long

Với mức giá xuống tận đáy chỉ 1.000-2.000 đồng/kg, thậm chí đổ bỏ vì không có đầu ra, nhiều siêu thị, doanh nghiệp… đã bắt ...

/ Dân Việt