Quá trình chuyển đổi năng lượng ở Đông Nam Á rất quan trọng để giảm lượng khí thải toàn cầu, nhưng tiến độ vẫn chậm so với kế hoạch. Theo Cơ quan Năng lượng tái tạo quốc tế (IRENA), khu vực cần tăng gấp đôi khoản đầu tư hằng năm vào hoạt động sản xuất năng lượng tái tạo để đẩy nhanh tốc độ chuyển đổi năng lượng và đáp ứng các mục tiêu về khí hậu.
Giới chuyên gia chỉ ra rằng, các khoản đầu tư nêu trên sẽ giúp khu vực này mở rộng hỗ trợ công nghệ và cơ sở hạ tầng, mở rộng các khoản đầu tư bao gồm đầu tư vào năng lượng tái tạo, nhiên liệu sinh học, nhiên liệu hydrogen. Ước tính từ nay đến năm 2050, ASEAN cần 29.400 tỷ USD để sản xuất 100% năng lượng tái tạo. Mặt khác, có một số ý kiến cho rằng, ASEAN cũng cần hướng tới xây dựng hệ thống lưới điện chung cho phép triển khai năng lượng tái tạo cao hơn thông qua thương mại điện đa phương và mở rộng các khu vực cân bằng lưới điện.
Ngoài ra, việc hài hòa các tiêu chuẩn kỹ thuật cho xe điện hai bánh và trạm sạc có thể cho phép các nhà sản xuất thiết bị gốc phát triển các sản phẩm phù hợp với nhu cầu trên khắp thị trường Đông Nam Á. Trên thực tế, các nước thành viên ASEAN đang nỗ lực thực hiện thu hút vồn đầu tư tư nhân vào phát triển năng lượng mặt trời và gió nhằm giúp giảm bớt những trở ngại trong việc chuyển đổi năng lượng. Hiện những khoản đầu tư đang được thu hút đầu tư không chỉ từ bên ngoài khu vực mà còn đến từ chính các nước thành viên ASEAN.
Cơ sở hạ tầng mua bán và truyền tải điện đa phương giữa các nước thành viên ASEAN cũng đang có sự phát triển nhanh chóng, chẳng hạn như quan hệ đối tác của Singapore với Indonesia và Campuchia về việc nhập khẩu 3 gigawatt công suất năng lượng tái tạo vào năm 2028. Chính sách năng lượng có chủ ý và minh bạch có thể định hướng cho các nước thành viên ASEAN và gửi tín hiệu một cách rõ ràng tới các nhà đầu tư về việc họ cam kết thúc đẩy chuyển đổi năng lượng quốc gia.
Trong bối cảnh đó, việc mở rộng ứng dụng năng lượng mặt trời và gió gần đây của Việt Nam được đánh giá như một nỗ lực điển hình, giúp Việt Nam sản xuất 13% điện năng vào năm 2023 – một mức tăng trưởng chưa từng có trong khu vực, và cách tiếp cận này có thể là kim chỉ nam cho ASEAN. Năm 2017, tỷ trọng năng lượng mặt trời và gió trong cơ cấu nguồn điện của Việt Nam là không đáng kể. Nhưng chỉ 6 năm sau, năm 2023, Việt Nam chiếm gần 2/3 tổng sản lượng điện mặt trời và điện gió ở ASEAN. Thái Lan, ở vị trí thứ hai, chỉ sản xuất được 1/4 sản lượng năng lượng mặt trời và gió của Việt Nam.
Sự vươn lên dẫn đầu về năng lượng mặt trời và gió của Việt Nam là bài học cho các thành viên ASEAN khác. “Phát súng” đầu tiên được “khai hỏa” là vào năm 2017, khi bộ biểu giá điện hỗ trợ (FIT) đầu tiên của Việt Nam được áp dụng cho các dự án năng lượng mặt trời và gió hoạt động trước tháng 6/2019. Các mức giá FIT sau đó đã giảm dần, với thời hạn cuối cùng được ấn định là vào tháng 11/2021, đi cùng với các giải pháp miễn thuế. Có những động lực lớn để thúc đẩy Việt Nam chuyển hướng sang năng lượng tái tạo, trong đó phải kể đến sự chậm trễ trong các dự án than hiện tại gây ra rủi ro về an ninh năng lượng do nhu cầu điện ngày càng tăng nhanh. Bên cạnh đó, các đô thị lớn nên sử dụng năng lượng tái tạo để giảm ô nhiễm.
Thực tế cho thấy, với nhu cầu năng lượng dự kiến sẽ tăng gấp ba lần từ năm 2020 đến năm 2050, quá trình chuyển đổi năng lượng ở Đông Nam Á có ý nghĩa quan trọng trong việc giảm lượng khí thải toàn cầu. Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) ước tính công suất của năng lượng tái tạo sẽ tăng thêm 63,1 gigawatt vào năm 2028, chỉ là một phần nhỏ trong số 229 gigawatt năng lượng tái tạo cần thiết vào năm 2030 để khu vực đạt được phát thải ròng bằng 0 như kịch bản đề ra. Nếu theo đà như hiện nay, còn rất lâu ASEAN mới đạt được mục tiêu nêu trên và cần có sự can thiệp chính sách mạnh mẽ hơn nữa.
Tuy vậy, điều tuyệt vời là các thành viên ASEAN có thể học hỏi từ Việt Nam về ý tưởng để thúc đẩy năng lượng mặt trời và gió. Chuyên gia về chính sách năng lượng Ahmed Albayrak tới từ Viện Nghiên cứu Lowy có trụ sở ở Sydney (Australia) nhấn mạnh: “Kinh nghiệm của Việt Nam là tập trung vào các ưu đãi về giá và sự chắc chắn về chính sách hợp lý là chìa khóa để thúc đẩy sử dụng năng lượng tái tạo”.
Theo đó, đầu tiên, khuyến khích về giá là quan trọng. FIT phải được đặt ở mức hấp dẫn đối với nhà đầu tư. Các ví dụ trước đây về chương trình FIT trong khu vực không đưa ra mức bù hợp lý so với chi phí và không thể thúc đẩy giải pháp cho năng lượng tái tạo. Các nghiên cứu cho thấy chính sách FIT hiệu quả nhất để triển khai năng lượng mặt trời và gió là chính sách FIT trang trải chi phí dự án và mang lại lợi nhuận. Việc đưa ra mức giá FIT cao hơn gần đây ở Thái Lan và Philippines là một bước đi đúng hướng. Thứ hai, yêu cầu về “hàm lượng nội địa” cũng có thể là một rào cản. Không giống như Malaysia và Indonesia, Việt Nam không đặt ra bất kỳ yêu cầu nào về “hàm lượng nội địa” đối với các tấm pin mặt trời.
Một nghiên cứu gần đây ở Ấn Độ, Brazil và Nam Phi cho thấy yêu cầu về “hàm lượng nội địa” đối với các dự án năng lượng tái tạo không thúc đẩy năng lực sản xuất trong nước mà làm tăng chi phí dự án. Tiếp đó, có lẽ bài học quan trọng nhất từ kinh nghiệm của Việt Nam, là sự chắc chắn về chính sách. Nếu không chắc chắn về chính sách có thể làm cho quá trình chuyển đổi năng lượng trở thành một con đường gập ghềnh.
Ngày 11/02/2020, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó đề ra hàng loạt nhiệm vụ và giải pháp đối với lĩnh vực năng lượng tái tạo, năng lượng mới như xây dựng các cơ chế, chính sách đột phá để khuyến khích và thúc đẩy phát triển mạnh mẽ các nguồn năng lượng tái tạo nhằm thay thế tối đa các nguồn năng lượng hoá thạch; ưu tiên sử dụng năng lượng gió và mặt trời cho phát điện; khuyến khích đầu tư xây dựng các nhà máy điện sử dụng rác thải đô thị, sinh khối và chất thải rắn đi đôi với công tác bảo vệ môi trường...