Chính phủ yêu cầu nghiên cứu phương án phát triển đường sắt tốc độ thiết kế 350km/h và thực sự trở thành trục xương sống, đồng thời khai thác hiệu quả tuyến đường sắt hiện có.
Nghiên cứu cơ chế đặc thù cả gói
Ngày 4/12, Văn phòng Chính phủ có văn bản thông báo kết luận của Phó thủ tướng Trần Hồng Hà tại cuộc họp về đề án chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam.
Theo đó, để chuẩn bị đầy đủ nội dung đề án, Phó thủ tướng Trần Hồng Hà đề nghị Bộ Giao thông vận tải (GTVT) căn cứ vào tác động lan tỏa, phát triển đô thị, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy phát triển du lịch...
Trên cơ sở tính tương hỗ giữa các phương thức vận tải để nghiên cứu, lựa chọn, đề xuất phương án đầu tư bảo đảm khả thi, an toàn, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu giai đoạn trước mắt và lâu dài.
Về kịch bản phát triển, Chính phủ yêu cầu nghiên cứu phương án phát triển đường sắt tốc độ thiết kế 350km/h và thực sự trở thành trục xương sống; đồng thời khai thác hiệu quả tuyến đường sắt hiện có.
Về cơ chế chính sách đặc thù, Phó thủ tướng giao Bộ GTVT chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, địa phương và doanh nghiệp nghiên cứu, đề xuất cơ chế chính sách đặc thù đặc biệt cả gói để báo cáo Bộ Chính trị, trình Quốc hội khi thông qua chủ trương đầu tư.
Cụ thể, gồm các cơ chế: Huy động và sử dụng các nguồn vốn; Sử dụng tiền thu từ sử dụng đất từ các địa phương; Đào tạo, sử dụng cán bộ, kỹ sư; nội địa hóa gắn với phát triển ngành công nghiệp đường sắt; Thu hút đầu tư PPP; cơ chế hợp tác, thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ thông qua FDI; Mô hình tổ chức vận hành - kinh doanh...
Nghiên cứu đảm bảo hướng tuyến ngắn nhất
Trong quá trình triển khai nghiên cứu tiếp theo, Phó thủ tướng chỉ đạo Bộ GTVT phối hợp với các bộ, ngành, địa phương liên quan nghiên cứu, làm sâu sắc thêm tầm quan trọng của giao thông, đặc biệt là đường sắt tốc độ cao trong việc phát triển đô thị theo định hướng gắn kết với giao thông công cộng (TOD).
Các bộ: GTVT, Xây dựng, Tài nguyên và Môi trường tiếp tục nghiên cứu giải pháp khai thác mô hình này.
Về hướng tuyến đường sắt tốc độ cao, Phó thủ tướng yêu cầu nghiên cứu sử dụng hiệu quả các giải pháp công trình cầu, hầm để đảm bảo hướng tuyến thẳng nhất có thể, đảm bảo khả năng thoát lũ, hạn chế ảnh hưởng đến các khu bảo tồn và chia cắt cộng đồng.
Trong đó, xem xét phương án bố trí điểm đầu, điểm cuối tuyến tại trung tâm Thủ đô Hà Nội và TP.HCM.
Về tổng mức đầu tư, do dự án có quy mô lớn, phức tạp về kỹ thuật - công nghệ, thời gian thực hiện dài (trên 10 năm) nên cần làm rõ việc tính toán sơ bộ tổng mức đầu tư chỉ là ước tính ban đầu, số liệu chính xác sẽ tiếp tục được cập nhật ở các bước tiếp theo khi đủ điều kiện, tránh hiểu nhầm trong trường hợp tổng mức đầu tư dự án tăng trong giai đoạn triển khai.
Về nguồn vốn, bố trí nguồn vốn trong giai đoạn đầu; giai đoạn sau nghiên cứu kết hợp nguồn thu từ giá trị gia tăng phát triển đô thị, kêu gọi xã hội hóa, thu hút vốn tư nhân đầu tư đầu máy, toa xe để kinh doanh vận tải và trả phí cho Nhà nước.
Nhấn mạnh phát triển nguồn nhân lực phải đi trước một bước, Phó thủ tướng giao căn cứ nhu cầu, dự tính số lượng lao động chất lượng cao (tự động hóa, chế tạo máy, chuyển đổi số...), nhân viên kỹ thuật trình cấp có thẩm quyền giao Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội triển khai thực hiện.
Bộ Công thương được giao chủ trì, phối hợp với Bộ GTVT nghiên cứu chính sách phát triển công nghiệp đường sắt và công nghiệp phụ trợ (cơ khí, chế tạo, luyện kim...) giúp phát triển đường sắt nói chung, đường sắt tốc độ cao nói riêng.
Tổng công ty Đường sắt Việt Nam chủ động tổ chức công tác chuẩn bị (đào tạo nguồn nhân lực, công nghệ, cơ khí...) để thực hiện quản lý, vận hành, khai thác đường sắt tốc độ cao.
Về công tác tư vấn, Phó thủ tướng giao nghiên cứu huy động chuyên gia, tư vấn nước ngoài, tổ chức quốc tế có kinh nghiệm về đường sắt tốc độ cao cùng tư vấn trong nước đánh giá kỹ phương án đầu tư bảo đảm khả thi, an toàn, hiệu quả tối ưu.