Mục tiêu đến năm 2030, cả nước đưa vào khai thác 28 sân bay (14 sân bay quốc tế), tổng sản lượng hành khách thông qua các sân bay khoảng 275,9 triệu hành khách và khoảng 4,1 triệu tấn hàng hóa.
Trước đó, Bộ Giao thông vận tải (GTVT) mới có tờ trình về việc phê duyệt đề án định hướng huy động nguồn vốn xã hội đầu tư kết cấu hạ tầng cảng hàng không, trong đó hàng loạt sân bay được đề xuất đầu tư theo hình thức PPP.
Sân bay thứ 2 của Thủ đô ở phía Đông Nam Hà Nội
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh chính vừa có ý kiến đối với kiến nghị của Bộ GTVT về phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, Thủ tướng yêu cầu Bộ GTVT rà soát lại quy hoạch đối với Cảng hàng không Đà Nẵng, Cảng hàng không Chu Lai bảo đảm không lãng phí nguồn lực (theo hướng ưu tiên phát triển Cảng hàng không Chu Lai); hoàn thiện Quy hoạch trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Theo dự thảo quy hoạch do Bộ GTVT trình Thủ tướng Chính phủ, mục tiêu đến năm 2030, tổng sản lượng hành khách thông qua các sân bay khoảng 275,9 triệu hành khách và khoảng 4,1 triệu tấn hàng hóa. Giai đoạn này, Bộ GTVT ưu tiên tập trung đầu tư một số sân bay lớn, đóng vai trò đầu mối tại vùng thủ đô Hà Nội như Nội Bài và vùng TP Hồ Chí Minh, gồm sân bay Tân Sơn Nhất, Long Thành; từng bước nâng cấp và khai thác có hiệu quả 22 sân bay hiện có, đầu tư 6 sân bay mới (Long Thành, Nà Sản, Lai Châu, Sa Pa, Quảng Trị, Phan Thiết) để nâng tổng số sân bay của cả nước đưa vào khai thác lên 28 sân bay (14 sân bay quốc tế và 14 sân bay quốc nội), tổng công suất thiết kế đáp ứng khoảng 283 triệu hành khách, đảm bảo trên 95% dân số có thể tiếp cận tới sân bay trong phạm vi 100km.
Bộ GTVT tiếp tục duy trì vị trí quy hoạch sân bay quốc tế Hải Phòng đã được Thủ tướng phê duyệt vào năm 2011 tại huyện Tiên Lãng (thành phố Hải Phòng); nghiên cứu, khảo sát và báo cáo Thủ tướng xem xét, quyết định việc bổ sung quy hoạch, xây dựng sân bay tại các đảo như Lý Sơn, Phú Quý... quần đảo có nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Tầm nhìn đến năm 2050, hình thành 31 sân bay, bao gồm 14 sân bay quốc tế (Vân Đồn, Hải Phòng, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc); 17 sân bay quốc nội (Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Cao Bằng, Nà Sản, Cát Bi, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau, Côn Đảo và sân bay thứ 2 phía đông Nam thủ đô Hà Nội).
Kêu gọi nguồn vốn xã hội đầu tư hàng loạt sân bay
Trước đó, theo tờ trình về việc phê duyệt đề án định hướng huy động nguồn vốn xã hội đầu tư kết cấu hạ tầng cảng hàng không, trong đó hàng loạt sân bay được đề xuất đầu tư theo hình thức PPP gửi Chính phủ. Bộ GTVT phân loại hệ thống cảng hàng không thành 5 nhóm, làm cơ sở định hướng huy động nguồn vốn xã hội đầu tư.
Nhóm 1: Gồm các sân bay Nội Bài, Đà Nẵng, Cam Ranh, Long Thành, Tân Sơn Nhất. Bộ GTVT cho rằng đây là những cảng hàng không quốc tế quan trọng của quốc gia, đóng vai trò gom hành khách, hàng hóa để kết nối với mạng đường bay nội địa và quốc tế; là các cảng hàng không quốc tế lớn có công suất quy hoạch đến năm 2030 lớn hơn 25 triệu hành khách/năm.
Với nhóm này, Bộ GTVT bố trí vốn đầu tư khu bay (cụm 2); Tổng Công ty cảng hàng không Việt Nam (ACV) bố trí vốn đầu tư các công trình hạ tầng thiết yếu còn lại (cụm 3); huy động 100% nguồn vốn xã hội để đầu tư các công trình dịch vụ hàng không và phi hàng không (cụm 4) theo hình thức đầu tư kinh doanh. Trường hợp Bộ GTVT và ACV không cân đối được nguồn vốn đầu tư, huy động nguồn xã hội đầu tư từng công trình theo hình thức PPP.
Nhóm 2: Gồm các sân bay Thọ Xuân, Chu Lai, Phù Cát, Tuy Hòa. Ở nhóm này sẽ đề xuất huy động nguồn vốn xã hội đầu tư toàn bộ cảng hàng không theo hình thức PPP, sử dụng tài sản kết cấu hạ tầng hiện có để tham gia dự án; đặc biệt là cảng hàng không Chu Lai hiện nay có nhiều nhà đầu tư quan tâm.
Nhóm 3: Gồm các sân bay Điện Biên, Nà Sản, Đồng Hới, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Rạch Giá, Cà Mau, Phú Quốc và Côn Đảo. Đây là những sân bay ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, cân đối thu chi khó khăn, có công suất quy hoạch đến năm 2030 nhỏ hơn 5 triệu hành khách/năm (trừ sân bay Phú Quốc). Đề xuất chuyển giao khu bay (cụm 2) và ACV chuyển giao các công trình hạ tầng thiết yếu còn lại (cụm 3) cho địa phương để chủ động huy động nguồn lực đầu tư phát triển. Trường hợp địa phương không tiếp nhận, Bộ GTVT và ACV tiếp tục thực hiện quản lý, khai thác và đầu tư như nhóm 1.
Nhóm 4: Gồm các sân bay Cát Bi, Vinh, Phú Bài, Liên Khương và Cần Thơ. Đây là các cảng hàng không có công suất quy hoạch đến năm 2030 lớn hơn 5 triệu hành khách/năm, có tiềm năng phát triển, có khả năng thu hút các nhà đầu tư. Đề xuất chuyển giao khu bay (cụm 2) và ACV chuyển giao các công trình hạ tầng thiết yếu còn lại (cụm 3) cho địa phương để chủ động huy động nguồn lực đầu tư phát triển toàn bộ cảng hàng không theo hình thức PPP.
Nhóm 5 là những cảng hàng không mới, gồm Sa Pa, Quảng Trị, Lai Châu và các cảng hàng không tiềm năng như Cao Bằng, Hải Phòng (Tiên Lãng), cảng hàng không thứ 2 vùng Thủ đô. Đề xuất huy động nguồn vốn xã hội đầu tư toàn bộ cảng hàng không theo hình thức PPP. Đồng thời đề xuất giao địa phương có quy hoạch cảng hàng không mới là cơ quan có thẩm quyền đầu tư theo hình thức PPP, chủ động huy động, cân đối nguồn lực và tổ chức thực hiện đầu tư.
Nguyên tắc huy động nguồn vốn xã hội đầu tư hạ tầng kết cấu cảng hàng không được đề xuất đảm bảo doanh nghiệp 100% vốn nhà nước giữ quyền hoạt động bay. Hình thức đầu tư đa dạng nhưng vẫn đảm bảo đồng bộ trong khai thác và quyền định đoạt của Nhà nước đối với tài sản kết cấu hạ tầng cảng hàng không.
Việc huy động nguồn vốn xã hội bảo đảm công khai, minh bạch, gắn trách nhiệm đầu tư với trách nhiệm quản lý, khai thác; tuân thủ các nguyên tắc về giá, phí hàng không của Chính phủ và ICAO.
Đường băng sân bay quốc tế Nội Bài hoàn thành nâng cấp, dự kiến khai thác từ 27-1
Hiện nay đường cất hạ cánh 1A và các đường lăn tương ứng S1, S2, S3, S3A, S5, S5A, S7 sân bay quốc tế Nội ... |