Sinh thời, vị tướng này được xem là anh cả của lực lượng du kích Việt Nam, ông từng là nỗi khiếp sợ của quân Pháp và được mệnh danh "Hùm xám Bắc Sơn".
Khi nhắc đến Bộ Quốc phòng và Quân đội Nhân dân Việt Nam, nhiều người thường nghĩ ngay đến Đại tướng Võ Nguyên Giáp - vị Tổng Tư lệnh huyền thoại gắn liền với những chiến thắng lẫy lừng.
Ít ai biết rằng, trong ngày đầu lập nước năm 1945, người giữ cương vị Bộ trưởng Quốc phòng đầu tiên là nhà cách mạng xuất thân nông dân - Thượng tướng Chu Văn Tấn.

Bác Hồ với tướng Chu Văn Tấn.
Tướng Chu Văn Tấn (1909 - 1984), quê quán tỉnh Thái Nguyên, là người dân tộc Nùng, sinh ra trong gia đình thổ hào địa phương. Thân phụ là cụ Chu Văn Hòa, từng tham gia nghĩa quân Hoàng Hoa Thám chống Pháp.
Xuất thân trong gia đình truyền thống yêu nước, từ nhỏ, ông Chu Văn Tấn được gia đình cho ăn học. Sau khi tốt nghiệp tiểu học ở Thái Nguyên năm 1927, ông từng có thời gian dạy học ở Bắc Hà.
Khi mới bước chân vào công việc cai quản châu đoàn (lính dõng) cho chính quyền địa phương, dưới ảnh hưởng của những người Cộng sản và được người dân địa phương tín nhiệm, ông bí mật tổ chức các đội tự vệ bán vũ trang tại Tràng Xá, Vũ Nhai, Bắc Sơn, tạo tiền đề cho lực lượng quân sự cách mạng sau này.
Năm 1935, chưa phải là đảng viên, Chu Văn Tấn được tham dự chi bộ Cộng sản do ông Hoàng Văn Thụ, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng về gây dựng ở Võ Nhai và Bắc Sơn. Một năm sau, ông Tấn chính thức gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương với bí danh Tân Hồng, bắt đầu sự nghiệp làm cách mạng của mình.
Tháng 9/1940, nhân cơ hội quân Nhật bất ngờ tấn công Lạng Sơn làm những đơn vị lính Pháp đồn trú tại đây hoảng loạn tháo chạy về châu Bắc Sơn, ông Tấn chỉ huy các đội tự vệ tấn công và cướp súng của tàn quân Pháp tại đèo Tam Canh để tự vũ trang cho mình. Ngày 27/9/1940, cũng chính ông chỉ huy các đội tự vệ tấn công đồn Mỏ Nhài (Bắc Sơn), hỗ trợ những người Cộng sản vận động dân chúng nổi dậy cướp chính quyền địa phương.
Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn bắt đầu từ đó. Song, do người Nhật đã thoả hiệp với thực dân Pháp nên cuộc khởi nghĩa này sớm bị dập tắt. Dù vậy, ông Chu Văn Tấn cùng một số đội viên tự vệ cùng vũ khí rút được vào rừng sâu Võ Nhai - Bắc Sơn lập căn cứ.
Tháng 11/1940, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 tại làng Đình Bảng, Bắc Ninh, ra quyết định về việc duy trì và bồi dưỡng lực lượng vũ trang của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, làm vốn quân sự đầu tiên cho cách mạng. Đầu tháng 2/1941, Chu Văn Tấn được bầu làm Xứ ủy viên Bắc Kỳ, phụ trách xây dựng đội du kích Bắc Sơn.
Ngày 14/2/1941, Đội Du kích Bắc Sơn được thành lập trong buổi lễ tổ chức tại khu rừng Khuổi Nọi (nay thuộc xã Vũ Lễ, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn). Ông Hoàng Văn Thụ thay mặt Trung ương Đảng công nhận, trao nhiệm vụ và lá cờ đỏ sao vàng cho Đội du kích Bắc Sơn. Bấy giờ Đội gồm 32 chiến sĩ, do ông Lương Văn Tri làm Chỉ huy trưởng và Chu Văn Tấn làm Chỉ huy phó.
Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 do Nguyễn Ái Quốc chủ trì tại Pắc Pó (tháng 5/1941), Đội du kích Bắc Sơn được đổi tên thành Trung đội Cứu quốc quân thứ nhất. Đồng chí Phùng Chí Kiên được điều về làm Phụ trách chung từ tháng 6/1941. Cuối tháng đó, quân Pháp cùng lính khố xanh, khố đỏ mở cuộc càn quét lớn vào Bắc Sơn.
Do lực lượng của ta còn mỏng hơn nhiều so với địch nên ta đành phải để lại 1 tiểu đội chặn địch, còn 2 tiểu đội phá vòng vây. Tiểu đội của các đồng chí Phùng Chí Kiên và Lương Văn Tri bị địch phục kích tiêu diệt, riêng tiểu đội do Chu Văn Tấn chỉ huy đã thoát khỏi vòng vây về được Pắc Pó.
Ngày 16/9/1941, Trung đội Cứu quốc quân thứ hai, với 47 chiến sĩ (có 3 nữ), được thành lập tại Khuôn Mánh (nay thuộc xã Tràng Xá, Võ Nhai, Thái Nguyên). Chu Văn Tấn được giao làm Chỉ huy trưởng của đơn vị này. Theo báo Quân đội nhân dân, ông đã phát triển lực lượng Cứu quốc quân, chiến đấu thắng lợi nhiều trận với thực dân Pháp, làm chúng khiếp đảm, phải đặt cho ông biệt danh là "Hùm xám Bắc Sơn".
Cuối năm 1944, ông Chu Văn Tấn chỉ huy lực lượng Cứu quốc quân 2 xây dựng Chiến khu Nguyễn Huệ (nay thuộc huyện Đại Từ, Thái Nguyên). Sau Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hòa (Bắc Giang) từ ngày 15 - 20/4/1945, Chiến khu Nguyễn Huệ phát triển thành Chiến khu Hoàng Hoa Thám, căn cứ địa vững chắc để đón lãnh tụ Hồ Chí Minh và các lãnh đạo khác về hoạt động.

Ngày 20/1/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 111 phong quân hàm Thiếu tướng cho ông Chu Văn Tấn (người đứng hàng sau cùng, thứ 3 từ trái sang).
Sau thành công của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 mà Chu Văn Tấn tham gia Ban lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa, ông được cử làm Bộ trưởng Quốc phòng trong Chính phủ lâm thời cho đến ngày 2/3/1946.
Ông được phong quân hàm Thiếu tướng cùng với 10 tướng lĩnh khác trong đợt phong hàm đầu tiên (1948), làm Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư Quân khu ủy Liên khu Việt Bắc (1954-1956), Chính ủy, Bí thư Khu ủy Quân khu Việt Bắc, Chủ tịch Ủy ban Hành chính Khu tự trị Việt Bắc (1957-1975). Ngày 31/8/1959, ông được thăng quân hàm vượt cấp từ Thiếu tướng lên Thượng tướng và là một trong hai Thượng tướng lúc bấy giờ.
Thượng tướng Chu Văn Tấn từng được bầu làm Phó Chủ tịch Quốc hội từ khóa III đến khóa V, Tổng Thư ký Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa V, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam.