Trong những năm tới chỉ nên hỏi sự tiến triển của NCKH đến đâu và điểm nổi của đại học Việt Nam trên trường quốc tế.
Đó là khẳng định của GS Nguyễn Văn Tuấn - Viện Garvan, Australia với báo Đất Việt khi Việt Nam không có trường Đại học nào lọt top trường Đại học châu Á.
Chưa tạo được uy danh trên trường quốc tế
PV: - Tạp chí Times Higher Education (THE - Anh) vừa công bố Bảng xếp hạng những trường Đại học (ĐH) hàng đầu châu Á. Bảng xếp hạng năm nay có hơn 350 trường tới từ 25 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong khi các nước bạn như Thái Lan, Indonesia, Malaysia lần đầu tiên có tên trong danh sách này, thì các trường ĐH của Việt Nam vẫn tiếp tục vắng bóng tại bảng xếp hạng này.
Là một chuyên gia có nhiều tâm huyết với nền giáo dục Việt Nam, ông đánh giá và nhìn nhận ra sao về kết quả này?
GS Nguyễn Văn Tuấn: - Tôi thiết nghĩ sự vắng bóng của các đại học Việt Nam trong các bảng xếp hạng đại học hàng đầu trên thế giới không phải là điều ngạc nhiên.
Chúng ta không kì vọng điều đó xảy ra hiện nay và trong tương lai gần. Chúng ta không kì vọng là vì tiêu chuẩn xếp hạng đại học của các nhóm dựa vào nghiên cứu khoa học (NCKH) và cái mà tôi gọi là "điểm nổi" (hay tiếng Anh là visibility), cả hai đều là điểm yếu của hầu hết các đại học ở Việt Nam.
Như tôi có lần đề cập trước đây, NCKH có trọng số đến 60% trong các bảng xếp hạng đại học.
Nói cách khác, NCKH hay phẩm chất của khoa học là yếu tố quyết định thứ hạng của một đại học. Mà, NCKH lại là một điểm yếu của các đại học Việt Nam. Những đại học có nhiều công bố khoa học trên các tập san quốc tế như Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Duy Tân...mỗi năm chỉ có trên dưới 300 bài.
Con số đó còn quá ít để có thể cạnh tranh với các đại học trong vùng như Mahidol, Chulalongkorn, Malaya, Sains Malaysia, Indonesia, (chưa nói đến Nanyang hay NUS). Mỗi đại học vừa kể mỗi năm công bố từ 3000 đến 4500 bài báo khoa học, tức tương đương cả nước Việt Nam cộng lại.
Số lượng nghiên cứu khoa học và điểm nổi đều là điểm yếu của Việt Nam
Lí do thứ hai là khía cạnh điểm nổi (hay nói đúng ra là "điểm chìm"). Hiện nay, hầu hết các đại học Việt Nam chưa tạo được uy danh (prestige) trên trường quốc tế.
Nguyên nhân là vì công bố khoa học còn khiêm tốn, nhưng một nguyên nhân khác là Việt Nam thiếu những nhà khoa học mà thế giới khoa học có thể nhìn vào và nhận ra "Việt Nam".
Dĩ nhiên, Việt Nam cũng có các nhà khoa học nổi tiếng, nhưng con số còn rất ít (có thể chỉ trên dưới 20 người) để có thể tạo ra một "động lượng" đem tên tuổi Việt Nam và đại học Việt Nam vào trường khoa học quốc tế. Tôi thấy rất rất ít giới lãnh đạo giáo dục và đại học nhận ra tầm quan trọng của tính visibility này.
Do đó, không ai ngạc nhiên khi các đại học Việt Nam còn lu mời trong thế giới đại học quốc tế.
Trong tương lai gần, tôi nghĩ giới báo chí không nên đặt câu hỏi tại sao các đại học Việt Nam không có tên trong các bảng xếp hạng đại học hàng đầu thế giới, mà nên hỏi sự tiến triển của NCKH đến đâu, và các trường đã làm gì để nâng cao tính visibility hay điểm nổi của đại học Việt Nam trên trường quốc tế.
Chỉ khi nào Việt Nam có một đại học mà mỗi năm công bố ít nhất 2000 công trình nghiên cứu khoa học thì mới bàn đến việc đứng ở đâu trong các bảng xếp hạng đại học thế giới.
PV: - Thưa ông, đâu là nguyên nhân của thực trạng này?Muốn nâng hạng nghiên cứu khoa học, chỉ với quyết tâm và sự thạo thuộc cách bình xét của các tạp chí khoa học, dùng những cách thức phù hợp để đáp ứng liệu đã đủ?
GS Nguyễn Văn Tuấn: - Chúng ta không nên nghĩ đến việc "đi tắt đón đầu", bởi vì nghiên cứu khoa học phải được xây dựng từ cơ bản, chứ không có chuyện "đi tắt", càng không có chuyện "đón đầu". Ý tôi muốn nói rằng nên đầu tư nhiều vào việc quan trọng nhất là xây dựng năng lực khoa học.
Tôi xin giải thích thêm. Nền khoa học của một quốc gia trải qua 4 giai đoạn: tiền phát triển, xây dựng, củng cố và mở rộng, và quốc tế hóa. Tôi thấy nền khoa học Việt Nam đang ở trong giai đoạn xây dựng (như các nước Indonesia và Philippines), tức còn thấp hơn Malaysia và Thái Lan (giai đoạn củng cố và mở rộng) hay Singapore và Hàn Quốc (giai đoạn quốc tế hóa).
Do đó, vấn đề không phải là am hiểu các "luật chơi" khoa học (vì đó chỉ là đầu ra thứ phát), mà là xây dựng năng lực nghiên cứu khoa học. Chúng ta đang thiếu những nhà khoa học nổi tiếng, thiếu những công trình nghiên cứu lớn, thiếu đầu tư cho khoa học, và năng lực quản lí khoa học còn kém.
Do đó, xây dựng năng lực nghiên cứu khoa học ở đây có nghĩa là thu hút, đào tạo và gìn giữ người có tài; là đầu tư mạnh về cơ sở vật chất một cách thích hợp và chính đáng; là chọn những chủ đề nghiên cứu có tác động lớn để theo đuổi; và nâng cao năng lực quản lí đầu ra của nghiên cứu khoa học.
Xã hội vẫn nặng định kiến với đại học tư
Theo TS Phạm Thị Ly, các trường đại học dân lập tại Việt Nam cần được khuyến khích và đầu tư để phát triển, đóng ... |
Đại học Việt Nam... lọt sổ
Theo bảng xếp hạng thường niên các trường đại học châu Á do tạp chí Times Higher Education vừa công bố, Việt Nam không có ... |