Những điểm mới của Luật Tổ chức Quốc hội vừa được thông qua

Đại biểu Quốc hội bị kết tội bằng bản án, quyết định của tòa án thì đương nhiên mất quyền đại biểu Quốc hội kể từ ngày bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật.

Với 461/461 đại biểu có mặt tán thành, chiều 17/2 Quốc hội đã biểu quyết thông qua dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội.

Đại biểu Quốc hội được khôi phục quyền hạn khi có kết luận không vi phạm

Báo cáo trước Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng cho biết, quá trình thảo luận về dự thảo luật, một số ý kiến đề nghị tại Điều 39 (về việc tạm đình chỉ hoặc mất quyền đại biểu Quốc hội) cần xác định rõ cơ sở làm căn cứ quyết định tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội. Việc này để tránh áp dụng tùy nghi, gây ảnh hưởng đến uy tín của đại biểu Quốc hội.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, quy định tại Điều 39 là nhằm cụ thể hóa Quy định số 148-QĐ/TW của Bộ Chính trị về căn cứ tạm đình chỉ công tác trong trường hợp có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng. Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, do việc xem xét, quyết định tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội có ảnh hưởng quan trọng đến đại biểu Quốc hội nên cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành thận trọng, cân nhắc kỹ, đúng quy trình, thủ tục, làm rõ căn cứ để xác định mức độ vi phạm của đại biểu Quốc hội trước khi có đề nghị đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội; trên cơ sở đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ xem xét, quyết định đối với từng trường hợp cụ thể.

Luật cũng quy định về việc đại biểu trở lại thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và được khôi phục lại các lợi ích hợp pháp khi có quyết định, kết luận về việc không có vi phạm, không bị xử lý kỷ luật. Điều 39 của luật vừa được Quốc hội thông qua nêu rõ các trường hợp Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội.

Thứ nhất là, khi đại biểu Quốc hội bị khởi tố bị can. Thứ hai, trong quá trình xem xét, xử lý hành vi vi phạm của đại biểu Quốc hội, có cơ sở xác định phải xử lý kỷ luật từ cảnh cáo trở lên đối với đại biểu Quốc hội là cán bộ, công chức, viên chức hoặc xử lý bằng pháp luật hình sự mà cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đã có văn bản đề nghị tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội đối với đại biểu Quốc hội đó.

Bên cạnh đó, Đại biểu Quốc hội được trở lại thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu và khôi phục các lợi ích hợp pháp khi cơ quan có thẩm quyền có quyết định, kết luận về việc không có vi phạm, không xử lý kỷ luật, quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án đối với đại biểu đó hoặc kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật tuyên đại biểu đó không có tội hoặc được miễn trách nhiệm hình sự.

Trường hợp đại biểu Quốc hội bị xử lý kỷ luật thì tùy theo tính chất, mức độ mà có thể xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định việc cho trở lại thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu hay đề nghị Quốc hội bãi nhiệm đại biểu Quốc hội.

“Đại biểu Quốc hội bị kết tội bằng bản án, quyết định của tòa án thì đương nhiên mất quyền đại biểu Quốc hội kể từ ngày bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật” -  luật quy định.

Thống nhất sửa “kỳ họp bất thường” thành “kỳ họp không thường lệ”

Thảo luận tại hội trường về dự thảo trước đó, nhiều đại biểu băn khoăn về tên gọi “Kỳ họp bất thường” và kiến nghị có cách gọi khác phù hợp hơn. Các ý kiến hoan nghênh việc Quốc hội tiến hành các kỳ họp không thường kỳ để kịp thời giải quyết nhiều vấn đề quan trọng của đất nước. Tuy vậy, cho rằng “gọi là kỳ họp bất thường nghe hơi căng”, do đó, sửa luật lần này “nên giải quyết dứt điểm tên gọi”.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, đây là vấn đề được nhiều đại biểu Quốc hội và cử tri quan tâm và đã được nêu nhiều lần. Do đó, trên cơ sở các phương án đề xuất của đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu và đề nghị sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 90 và sửa kỹ thuật tại khoản 1, khoản 3 Điều 33, khoản 2 Điều 91, khoản 1 Điều 92 của Luật Tổ chức Quốc hội theo hướng cụ thể hóa quy định về “Quốc hội họp bất thường” tại khoản 2 Điều 83 của Hiến pháp thành “Kỳ họp không thường lệ”.

Cụ thể, Quốc hội họp thường lệ mỗi năm hai kỳ. Kỳ họp không thường lệ của Quốc hội được tổ chức khi có yêu cầu của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội để kịp thời xem xét, quyết định các vấn đề cấp bách thuộc thẩm quyền của Quốc hội đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Đồng thời, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết sẽ tiếp tục nghiên cứu việc đánh số các kỳ họp thường lệ và không thường lệ của Quốc hội cho phù hợp để thực hiện thống nhất từ nhiệm kỳ sau.

Không quy định "cứng" số lượng, tên gọi các cơ quan của Quốc hội

Ngoài ra, luật vừa được thông qua không quy định cứng số lượng, tên gọi các cơ quan của Quốc hội. Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật cho hay điều này để phù hợp và thuận lợi cho việc tiếp tục thực hiện chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, bảo đảm hài hòa về cơ cấu tổ chức với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan.

Theo Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng, trong số 10 cơ quan của Quốc hội hiện nay có tới 8 cơ quan chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của việc sắp xếp, sáp nhập, điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn và có hai cơ quan mới của Quốc hội được thành lập.

Do đó, việc quy định về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các cơ quan cần tiếp tục được nghiên cứu, điều chỉnh, đáp ứng tốt hơn nữa yêu cầu về đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động. “Thực tế cho thấy quy mô và khối lượng công việc của các cơ quan chưa thực sự đồng đều, còn có sự chênh lệch lớn giữa các cơ quan thực hiện và không thực hiện sắp xếp” - Chủ nhiệm Uỷ ban pháp luật Hoàng Thanh Tùng nói.

Vì vậy, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật cho rằng, việc Quốc hội ban hành một nghị quyết riêng về tổ chức các cơ quan của Quốc hội và giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể và cơ cấu tổ chức của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban trong bối cảnh hiện nay là phù hợp, bảo đảm thận trọng, đáp ứng yêu cầu của công tác sắp xếp tổ chức bộ máy và bảo đảm tính ổn định, lâu dài của luật.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội vừa được thông qua đã sửa đổi, bổ sung 21 điều (tăng 4 điều so với dự thảo trình Quốc hội cho ý kiến) và bãi bỏ 17 điều của luật hiện hành.

Luật có hiệu lực thi hành từ ngày được Quốc hội thông qua, nhằm bảo đảm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy và công tác cán bộ, bảo đảm đồng bộ, thống nhất với việc sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Thu Thủy / CAND