Con đường tiến vào NATO của Ukraine sẽ trở nên rõ ràng hơn chỉ khi Kiev thực hiện các cải cách chống tham nhũng và giải quyết xung đột với Nga, cũng như tình hình chính trị ở Mỹ có lợi cho Ukraine.
Theo kết quả của Hội nghị Thượng đỉnh Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) tại Vilnius (Litva) tuần qua, các nhà lãnh đạo khối quân sự do Mỹ dẫn đầu đã nhất trí về gói ba yếu tố nhằm đưa Ukraine đến gần hơn với khối. Yếu tố đầu tiên bao gồm việc tạo ra một chương trình hỗ trợ cho Ukraine để có thể chuyển đổi sang các tiêu chuẩn của NATO. Yếu tố thứ hai là thành lập Hội đồng NATO-Ukraine, và yếu tố thứ ba liên quan đến việc hủy bỏ kế hoạch hành động thành viên cho Ukraine, điều này sẽ rút ngắn quá trình gia nhập của Kiev. Tuy nhiên, không có lời mời chính thức nào được khối này mở rộng tới Kiev.
Các chuyên gia cho rằng con đường tiến vào NATO sẽ trở nên rõ ràng hơn chỉ khi Kiev thực hiện các cải cách chống tham nhũng và giải quyết xung đột với Nga, cũng như tình hình chính trị ở Mỹ có lợi cho Ukraine. "Về nguyên tắc, có thể sẽ mất nhiều thập kỷ để Ukraine xóa bỏ mọi rào cản khi gia nhập NATO ngay cả khi đạt được hòa bình. Ví như Ukraine sẽ cần phải làm sạch nạn tham nhũng. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh đó, có khả năng NATO sẽ tìm cách đẩy nhanh quá trình kết nạp", ông John Mueller, nhà khoa học chính trị và giáo sư danh dự tại Đại học Bang Ohio, nhận xét.
Trong khi đó, ông James Sperling, giáo sư danh dự về khoa học chính trị tại Đại học Akron, nhấn mạnh rằng một trong những yêu cầu để Kiev gia nhập liên minh NATO là giải quyết tất cả các tranh chấp lãnh thổ còn tồn tại. Điều đó có nghĩa là Kiev phải khiến Moscow công nhận biên giới trước năm 2014 của Ukraine và rút quân, hoặc đạt được một giải pháp lãnh thổ với Điện Kremlin để làm cơ sở cho mối quan hệ trong tương lai giữa các quốc gia. Chuyên gia này nói với Sputnik rằng một số thỏa thuận với Nga nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động vận chuyển ở Biển Azov cũng sẽ được thực hiện.
Ngoài ra, ông James Sperling dự đoán triển vọng thực sự của việc Ukraine gia nhập NATO là một vấn đề hoàn toàn khác do một số vấn đề, trong đó quan trọng nhất là lập trường của chính phủ Mỹ. Ví dụ, nếu cựu Tổng thống Donald Trump tái đắc cử, tư cách thành viên của Ukraine trong NATO sẽ bị loại khỏi bàn đàm phán trong suốt thời gian ông cầm quyền, và bản thân khối NATO sẽ may mắn nếu như còn tồn tại. Vị chuyên gia tiếp tục gợi ý rằng một rào cản khác mà Kiev sẽ phải vượt qua là quyền phủ quyết tiềm ẩn từ các thành viên NATO hiện tại, trích dẫn ví dụ về Thụy Điển, quá trình kết nạp Stockholm đã bị cản trở bởi Thổ Nhĩ Kỳ và Hungary.
Và không thể không nhắc tới Mỹ. Cuộc khủng hoảng Ukraine đánh dấu lần đầu tiên trong lịch sử, Washington phải đối mặt với những rủi ro nghiêm trọng trong việc xác định giới hạn hiện diện quân sự của mình ở châu Âu. Bất kỳ động thái thực sự nào của Mỹ trong việc mời Ukraine gia nhập NATO đều đồng nghĩa với việc sẵn sàng tham gia vào một cuộc đối đầu quân sự trực tiếp với Nga. Nhiều người tin rằng, một lựa chọn ít rủi ro hơn sẽ là hứa hẹn với chính phủ của Tổng thống Volodymyr Zelensky một số đảm bảo song phương đặc biệt.
Khối quân sự NATO được thành lập trên cơ sở sự phân chia thực sự của châu Âu thành các khu vực ảnh hưởng giữa Mỹ và Liên Xô sau Thế chiến II. Khối quân sự này được thành lập vào năm 1949 để chính thức tước đi khả năng tự đưa ra các quyết định về chính sách đối ngoại và học thuyết quân sự của các đồng minh của Mỹ tại châu lục này. Về mặt này, NATO không khác gì Hiệp ước Warsaw đã xuất hiện trong phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô. Mối quan hệ giữa Mỹ và các nước NATO khác chưa bao giờ là một liên minh theo nghĩa truyền thống. Trong thế kỷ trước, các liên minh cổ điển đã không còn tồn tại hoàn toàn - khoảng cách về khả năng quân sự giữa các siêu cường hạt nhân và mọi quốc gia khác trên thế giới trở nên quá lớn.
Một liên minh quân sự giữa các nước tương đối bình đẳng là có thể như đã từng có cho đến giữa thế kỷ trước nhưng vũ khí hạt nhân đã khiến điều này trở nên bất khả thi. Các quốc gia có chủ quyền cũ của châu Âu đã trở thành một căn cứ lãnh thổ mà từ đó các cường quốc có thể đàm phán trong hòa bình và hành động trong chiến tranh. Việc thành lập NATO và sự gia nhập sau đó của các quốc gia như Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha và Tây Đức vào liên minh là một sự chính thức hóa ranh giới thống trị của Mỹ mà Liên Xô đã đồng ý trong quan hệ song phương.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, việc mở rộng sự kiểm soát của Mỹ đối với các đồng minh cũ của Nga ở Đông Âu và thậm chí cả các nước cộng hòa Baltic cũng không phải là một chính sách gây rủi ro nghiêm trọng cho Washington. Ngẫu nhiên, đây là lý do tại sao NATO có một quy tắc không chính thức là không kết nạp các quốc gia có tranh chấp lãnh thổ chưa được giải quyết với các quốc gia thứ ba.
Sự mở rộng của NATO sau Chiến tranh Lạnh dựa trên sự lừa dối, với việc Mỹ hứa với Moscow rằng họ sẽ không mở rộng khối liên minh quân sự này đến biên giới Nga. Tuy nhiên, thời kỳ đầu, Nga không đủ sức mạnh để chống lại, đồng nghĩa với việc Mỹ có thể tạo ảnh hưởng lên các quốc gia không có mối đe dọa xung đột quân sự ngay lập tức. Cách tiếp cận của Mỹ đối với NATO vẫn đúng với triết lý của những người chiến thắng năm 1945: không có quốc gia có chủ quyền, chỉ có các vùng lãnh thổ được kiểm soát.
Một khi quyết định được đưa ra ở Washington, đó chỉ là vấn đề chiến lược để đảm bảo rằng chính quyền địa phương đưa ra quyết định "đúng". Điều này càng trở nên tồi tệ hơn khi việc gia nhập NATO của các quốc gia mới trong những năm 1990 và 2000 được "đóng gói" với sự mở rộng của Liên minh châu Âu. Điều này mang lại cho giới tinh hoa tại các nước đó mọi lý do để khao khát gia nhập khối, từ đó họ mong đợi những lợi ích vật chất hữu hình.
Đối với các quốc gia đã gia nhập, NATO trở thành sự đảm bảo cho sự ổn định nội bộ. Vì các quyết định quan trọng nhất đối với họ được đưa ra bên ngoài hệ thống chính trị quốc gia của họ, không có lý do gì để cạnh tranh nội bộ và không có nguy cơ gây bất ổn nghiêm trọng. Tất nhiên, không có quốc gia nào an toàn trước những xáo trộn chính trị nội bộ nhỏ, chẳng hạn như những xáo trộn chính trị do thay đổi chính phủ - đặc biệt nếu quốc gia nắm quyền không được Mỹ ưa thích.
Nhưng những thay đổi căn bản, thường liên quan đến các vấn đề chính sách đối ngoại, đã trở nên bất khả thi. Các chính quyền ở Đông Âu và Baltic ngay lập tức nhận ra rằng họ sẽ không tồn tại lâu trong quyền lực mà không nằm dưới sự kiểm soát của Washington - sự đoạn tuyệt với Moscow và vị trí ngoại vi của của họ hứa hẹn quá nhiều vấn đề.
Việc mời Ukraine gia nhập NATO có thể có ý nghĩa hoàn toàn mới đối với chính sách đối ngoại của Mỹ - sẵn sàng chiến đấu trực diện với một đối thủ ngang hàng như Nga.
https://cand.com.vn/binh-luan-quoc-te/gap-ghenh-con-duong-gia-nhap-nato-cua-ukraine-i700588/