Sau thắng lợi vang dội ở Tây Nguyên, chiến dịch giải phóng Bình Định một lần nữa khẳng định chiến tranh không chỉ là chuyện vũ khí, mà là của trí tuệ và chiến lược.
Sau những thắng lợi vang dội ở Tây Nguyên, Bộ Tư lệnh Chiến dịch quyết định đẩy mạnh tiến công xuống duyên hải Nam Trung Bộ, trong đó Bình Định là một vị trí chiến lược quan trọng. Địch lúc này, gồm quân chủ lực của Sư đoàn 22 ngụy, được hậu thuẫn bởi lính bảo an và các đơn vị Mỹ còn sót lại. Chúng ra sức cố thủ tại Quy Nhơn, An Nhơn và Phù Cát, biến nơi đây thành các cứ điểm phòng thủ kiên cố.
Dưới sự chỉ đạo tài tình của Bộ Tư lệnh Quân khu 5, các cánh quân giải phóng nhanh chóng hành quân áp sát chiến trường. Đoàn quân gồm các trung đoàn chủ lực, du kích địa phương và sự hỗ trợ hết mình của nhân dân. Tất cả đều chung một ý chí: “Đánh đuổi giặc thù, giải phóng quê hương!”

Chiến dịch Giải phóng Bình Định mùa xuân năm 1975 (Ảnh: Trung tâm lưu trữ lịch sử tỉnh Bình Định)
Khi chủ quan thành bản án tử của quân VNCH
Đầu tháng 3 năm 1975, tại Tổng hành dinh Quân đoàn II của quân đội Việt Nam Cộng hòa (VNCH) ở Pleiku, một cuộc họp khẩn cấp diễn ra dưới sự chủ trì của tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân đoàn II, với sự tham gia của các sĩ quan cấp cao trong vùng.
Báo cáo từ các tình báo viên cho biết quân Giải phóng đang đẩy mạnh tấn công ở Tây Nguyên, đặc biệt là tại Buôn Ma Thuột. Một số sĩ quan lo ngại rằng nếu mất Tây Nguyên, quân Giải phóng có thể đánh thẳng xuống Bình Định. Tuy nhiên, Phú khoát tay gạt đi:
"Mất Buôn Ma Thuột không phải là hết. Bình Định có hệ thống phòng thủ mạnh. Chúng ta còn cả Quy Nhơn, Phù Cát, và lực lượng tiếp viện từ Quân đoàn III nếu cần. Việt Cộng không dễ mà đánh vào đây!"
Một sĩ quan tham mưu dè dặt hỏi:
"Thưa tư lệnh, nếu địch đánh từ Tây Nguyên xuống, liệu ta có giữ được An Khê không?"
Phú cười khẩy, tự tin đáp:
"An Khê là cánh cửa vào Bình Định, nhưng có ai thấy Việt Cộng mang xe tăng đi xuyên rừng chưa? Chúng không thể tiến nhanh như vậy! Ta cứ giữ vững các đô thị lớn là đủ!"
Với nhận định đó, Quân đoàn II quyết định không tăng cường lực lượng cho tuyến phòng thủ phía tây Bình Định. Họ tập trung quân ở các thành phố lớn như Quy Nhơn, Phù Cát, An Nhơn và Hoài Nhơn, đồng thời tin rằng quân Giải phóng sẽ phải mất nhiều tháng mới đủ sức đánh vào khu vực này.

Quân giải phóng tấn công cứ điểm Gò Loi, huyện Hoài Ân, Bình Định (Ảnh: Trung tâm lưu trữ lịch sử tỉnh Bình Định)
Cùng thời điểm đó, tại Bộ Tổng tham mưu quân đội Việt Nam Cộng hòa ở Sài Gòn, tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng, nhận được báo cáo tình hình Tây Nguyên ngày càng xấu đi. Trong một cuộc họp với các sĩ quan cao cấp, một số người đề nghị điều quân tăng viện cho Bình Định, nhưng Viên lắc đầu:
"Tây Nguyên mới là nơi đáng lo. Bình Định còn nguyên lực lượng, có hải quân, có không quân yểm trợ. Mất Tây Nguyên không có nghĩa là mất luôn duyên hải. Đừng vội hoảng loạn!"
Lúc đó, tướng Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh Quân đoàn III, cũng đồng ý: "Chúng ta không thể cứ chạy theo Việt Cộng mãi. Nếu chúng xuống Bình Định, ta có thể phản kích, tái chiếm dễ dàng."
Những nhận định chủ quan này đã khiến quân đội Sài Gòn không có kế hoạch phòng thủ chiều sâu, không dự phòng phương án rút lui có tổ chức và hoàn toàn không lường trước được chiến lược của quân Giải phóng.

Diễn biến chiến dịch giải phóng tỉnh Bình Định. (Ảnh: Trung tâm lưu trữ lịch sử tỉnh Bình Định)
Sư đoàn 22 ngụy được giao trọng trách giữ vững Bình Định. Dưới sự chỉ huy của Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, chúng dựng lên một hệ thống phòng thủ kiên cố từ Quy Nhơn, An Nhơn cho đến Phù Cát. Các tuyến phòng ngự được gia cố bằng công sự bê tông, lô cốt kiên cố, bãi mìn dày đặc. Phía biển, chúng có hạm đội sẵn sàng yểm trợ pháo binh. Trên trời, không quân có thể xuất kích từ sân bay Phù Cát.
Tuy nhiên, điều mà Thọ không ngờ đến là việc y cố thủ Bình Định không khác gì tự nhốt mình vào một cái bẫy chết chóc.
Trong khi đó, quân Giải Phóng đã nắm rõ nhược điểm của tuyến phòng thủ này: Các căn cứ dàn trải nhưng không có lực lượng phản ứng nhanh, dẫn đến tình trạng bị cô lập khi bị đánh úp; Quân số tinh nhuệ bị chia cắt, chỉ còn lại một bộ phận nhỏ chủ lực và phần lớn là bảo an, dân vệ thiếu tinh thần chiến đấu; Phụ thuộc vào tiếp tế từ Sài Gòn, trong khi đường tiếp tế bị quân ta cắt đứt dần.
Trong các cuộc họp mật, một số sĩ quan ngụy lo sợ Bình Định sẽ thất thủ như Tây Nguyên. Nhưng Chuẩn tướng Thọ vẫn hoang tưởng:
“Chúng ta có pháo hạm, có máy bay, có quân số gấp đôi! Địch muốn đánh vào Bình Định? Chúng sẽ phải trả giá đắt!”
Y không hề biết rằng, quyết định bám trụ của mình đã vô tình biến Bình Định thành một nấm mồ khổng lồ chờ chôn vùi toàn bộ quân ngụy tại đây.
Chiến dịch “3 quả đấm” giải phóng Bình Định
Sau những thắng lợi vang dội ở Tây Nguyên, Bộ Tư lệnh Chiến dịch quyết định đẩy mạnh tiến công xuống duyên hải Nam Trung Bộ, trong đó Bình Định là một vị trí chiến lược quan trọng. Địch lúc này, gồm quân chủ lực của Sư đoàn 22 ngụy, được hậu thuẫn bởi lính bảo an và các đơn vị Mỹ còn sót lại. Chúng ra sức cố thủ tại Quy Nhơn, An Nhơn và Phù Cát, biến nơi đây thành các cứ điểm phòng thủ kiên cố.

Tư liệu chiến lược về các cuộc chiến đấu của quân và dân Bình Định trong kháng chiến chống Mỹ.
Lực lượng ta do Quân khu 5 chỉ đạo chiến dịch với sự tham gia của các đơn vị chủ lực gồm: Sư đoàn 3 Sao Vàng – Đơn vị thiện chiến, từng lập nhiều chiến công tại Khu 5; Sư đoàn 2 – Được điều động từ Quân khu 5 để tăng cường sức mạnh tấn công; Sư đoàn 968 – Vừa hoàn thành nhiệm vụ tại Lào, được điều vào hỗ trợ chiến dịch cùng các đơn vị đặc công, biệt động, pháo binh và du kích địa phương.
Tướng lĩnh chỉ huy chiến dịch gồm: Trung tướng Chu Huy Mân – Tư lệnh Quân khu 5, chỉ huy chung chiến dịch; Thiếu tướng Nguyễn Chánh – Chính ủy Quân khu 5, phụ trách công tác chính trị và hậu cần; Thiếu tướng Lê Trọng Tấn – Phó Tổng Tham mưu trưởng, trực tiếp theo dõi và chỉ đạo các hướng tiến công quan trọng; Các chỉ huy cấp sư đoàn chỉ đạo các mũi tiến công cụ thể.
Dưới sự chỉ huy tài tình của, tướng lĩnh xuất sắc thuộc Bộ Tư lệnh Quân khu 5, các cánh quân giải phóng nhanh chóng hành quân áp sát chiến trường. Đoàn quân gồm các trung đoàn chủ lực, du kích địa phương và sự hỗ trợ hết mình của nhân dân. Tất cả đều chung một ý chí: “Đánh đuổi giặc thù, giải phóng quê hương!”

Dân công Bình Định mở đường phục vụ chiến dịch Xuân 1975 (Ảnh: Trung tâm lưu trữ lịch sử tỉnh Bình Định)
Trong khi địch còn đang tự tin với tuyến phòng thủ của mình, Trước khi mở chiến dịch, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 đã phân tích kỹ chiến lược của VNCH và tìm ra những điểm yếu chí mạng:
Địch đang hoảng loạn sau khi thua ở Tây Nguyên.
Tuyến phòng thủ của địch có kẽ hở, tập trung ở đô thị nhưng bỏ trống tuyến đường huyết mạch.
Chúng chủ quan, nghĩ rằng quân ta cần thời gian để củng cố trước khi tấn công.
Từ đó, Bộ Tư lệnh quyết định đánh nhanh, đánh mạnh, đánh từ ba hướng, không để địch có cơ hội phản công.
Ba mũi tiến công quan trọng bao gồm:
Quả đấm thứ nhất – Tấn công từ phía Bắc: Quân ta từ Quảng Ngãi đánh xuống Hoài Nhơn, chọc thủng phòng tuyến đầu tiên của VNCH.
Quả đấm thứ hai – Đột kích từ phía Tây: Các đơn vị chủ lực từ Tây Nguyên tiến xuống theo đường 19, tiêu diệt quân địch ở An Khê và cắt đứt tuyến tiếp viện từ Tây Nguyên ra Bình Định.
Quả đấm thứ ba – Tấn công từ phía Nam: Quân ta từ Phú Yên tiến lên, khóa chặt Quy Nhơn, chặn đường rút lui của quân địch ra biển.
Mục tiêu là dồn quân VNCH vào thế bị bao vây hoàn toàn – không có viện binh, không có đường rút lui.

Những anh hùng còn sống dâng hương đến những đồng đội đã hy sinh anh dũng tại di tích Núi Bà (huyện Phù Cát) trong ngày kỷ niệm 50 năm Giải phóng Bình Định.
Đêm 24/3/1975, lệnh tiến công được ban ra. Tiếng pháo gầm rít trên bầu trời khi Sư đoàn 3 Sao Vàng dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng Nguyễn Chánh mở đường tiến vào Bồng Sơn. Địch co cụm kháng cự quyết liệt, nhưng trước những loạt tấn công như vũ bão, chúng lần lượt gục ngã.
Ngày 26/3/1975, quân ta từ Quảng Ngãi mở cuộc tấn công vào Hoài Nhơn. Đây là vị trí chiến lược mà VNCH tin rằng có thể cầm cự lâu dài.
Tuy nhiên, do chủ quan, lực lượng phòng thủ tại đây quá mỏng. Chỉ sau 48 giờ giao tranh, Sư đoàn 22 Bộ binh VNCH bị đánh tan, quân ta kiểm soát toàn bộ Hoài Nhơn.
Khi nhận tin này, tướng Phú tái mặt, thốt lên trong cuộc họp khẩn với các chỉ huy: “Sao có thể mất Hoài Nhơn nhanh vậy?! Chẳng lẽ chúng đánh từ ba hướng sao?”
Nhưng lúc này, đã quá muộn.
Ngày 26/3, Bồng Sơn và Hoài Nhơn hoàn toàn giải phóng. Quốc lộ 1A bị cắt đứt, khiến địch ở Quy Nhơn rơi vào thế cô lập. Cùng lúc đó, quân ta từ Tây Nguyên tràn xuống theo đường 19, đột kích vào An Khê – cứ điểm phòng thủ trọng yếu.
Ngày 28/3/1975, quân ta đánh bại quân địch tại đây, chiếm An Khê, cắt đứt con đường huyết mạch giữa Tây Nguyên và Bình Định.
Không để địch kịp phản công, Trung tướng Lê Trọng Tấn chỉ huy Sư đoàn 2 mở cuộc tiến công quyết liệt vào Phù Mỹ và Phù Cát.
Ngày 28/3, sư đoàn 2 sau 12 giờ chiến đấu đã làm chủ Phù Mỹ.
Ngày 29/3, dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng Nguyễn Chánh, các đơn vị pháo binh và bộ binh tiến công dữ dội, biến sân bay Phù Cát thành một biển lửa, triệt hạ hoàn toàn sức mạnh không quân của địch tại Bình Định.
Một sĩ quan VNCH tuyệt vọng báo cáo với tướng Phú:
“Thưa tư lệnh, ta không còn đường rút! Việt Cộng đang đánh từ ba phía, quân ta mất tinh thần rồi!”
Lúc này, Bình Định hoàn toàn bị cô lập.

Ông Lâm Trường Định (giữa), Giám đốc Trung tâm lưu trữ lịch sử tỉnh Bình Định phân tích lại trận chiến của quân ta trong chiến dịch Giải phóng Bình Định.
Giữa trưa 30/3, Trung tướng Chu Huy Mân ra lệnh tổng công kích Quy Nhơn: “Đánh nhanh, đánh mạnh, không để địch kịp trở tay!”. Cánh quân phía Nam từ Phú Yên đánh vào Quy Nhơn, giáng cú đấm cuối cùng vào hệ thống phòng thủ của VNCH.
Thiếu tướng Lê Trọng Tấn chỉ huy Sư đoàn 2 đánh vào cửa ngõ phía Nam Quy Nhơn. Thiếu tướng Nguyễn Chánh dẫn đầu Sư đoàn 3 Sao Vàng đánh vào trung tâm thành phố. Lực lượng biệt động thành tổ chức đánh chiếm cảng Quy Nhơn, cắt đứt đường tháo chạy của địch.
Lực lượng địch nhanh chóng rơi vào hỗn loạn, tàn quân tìm cách rút ra biển. Tuy nhiên, hải quân VNCH không thể di tản toàn bộ, khiến hàng ngàn binh sĩ bị bỏ lại và buộc phải đầu hàng.
Ngày 31/3/1975, quân ta tiến vào Quy Nhơn, hoàn toàn làm chủ Bình Định.
Chiến lược “Ba quả đấm” đã phát huy hiệu quả tối đa, đánh vào chính điểm yếu của quân địch:
Chia cắt lực lượng địch: Đánh từ ba hướng khiến địch không kịp xoay trở, nhanh chóng tan rã.
Đánh đúng điểm yếu: Địch tập trung quân ở đô thị, trong khi ta tấn công vào các tuyến tiếp viện và đường rút lui, làm chúng rơi vào thế bị động.
Thời gian nhanh chóng: Chỉ trong 5 ngày (từ 26/3 đến 31/3/1975), toàn bộ Bình Định được giải phóng, không cho địch cơ hội phản công.
Tướng Phạm Văn Phú, người từng tự tin giữ Bình Định bằng “lá chắn thép”, cuối cùng phải cay đắng chứng kiến sự sụp đổ nhanh chóng của quân đội mình.
Sau thất bại thảm hại ở Quy Nhơn, quân địch không còn đường lui. Lực lượng quân giải phóng nhanh chóng quét sạch tàn quân, giải phóng toàn bộ Bình Định.
Ngày 1/4/1975, Bình Định hoàn toàn sạch bóng quân thù. Nhân dân tràn ra đường, vẫy cờ chiến thắng. Những tên địch còn sống bị dẫn giải, cúi gằm mặt trong nỗi ê chề.
Sai lầm lớn nhất của quân ngụy là đánh giá thấp sức mạnh quân giải phóng, và tự huyễn hoặc mình rằng có thể giữ vững Bình Định. Nhưng chúng đã sai.
Trận chiến này không chỉ là một thất bại đơn thuần – nó là sự sụp đổ hoàn toàn của chiến lược phòng thủ miền Trung. Địch không chỉ mất Bình Định, mà còn mở đường cho quân giải phóng tiến thẳng vào Phú Yên, Khánh Hòa, quét sạch quân ngụy khỏi vùng duyên hải.
Bình Định được giải phóng, trở thành mồ chôn của cả một chiến lược phòng thủ của địch. Và chiến dịch này chính là một bản án dành cho kẻ thù, một chiến công rực rỡ khắc sâu vào lịch sử dân tộc!
“Chúng ta có máy bay, có pháo hạm, có lô cốt kiên cố! Việt Cộng mà muốn chiếm Bình Định? Đừng hòng!”– Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, Tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh, phát biểu tại cuộc họp ngày 15/3/1975
Những lời tuyên bố mạnh miệng đó đã trở thành sự mỉa mai cay đắng chỉ hai tuần sau đó, khi Bình Định thất thủ nhanh chóng. Sai lầm chiến lược, sự chủ quan của chỉ huy và tinh thần bạc nhược của binh lính Sài Gòn đã biến một phòng tuyến tưởng như "bất khả xâm phạm" trở thành mồ chôn tập thể của quân địch.
Trong trận chiến này, hơn 20.000 quân VNCH bị tiêu diệt, toàn bộ vũ khí hiện đại bị thu giữ.

Quân dân Quy Nhơn tưng bừng trong ngày Giải phóng. Ảnh: (Ảnh: Trung tâm lưu trữ lịch sử tỉnh Bình Định)
Chiến lược “Ba quả đấm” trong Chiến dịch giải phóng Bình Định là một minh chứng cho sự sáng suốt của quân Giải phóng trong việc đánh giá tình hình và triển khai chiến thuật hợp lý. Đây không chỉ là một trận chiến thắng lợi về quân sự mà còn thể hiện sự nhạy bén, linh hoạt trong chiến lược tổng tiến công mùa Xuân năm 1975.
Một lần nữa, chiến tranh không chỉ là chuyện vũ khí, mà là chuyện của trí tuệ và chiến lược.
Chiến dịch Bình Định 1975 – Bản hùng ca bất diệt của quân và dân ta!
Chiến thắng tại Bình Định không chỉ mở ra thế trận thuận lợi cho quân ta ở duyên hải miền Trung mà còn góp phần đẩy nhanh tốc độ tiến công trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, dẫn đến đại thắng 30/4/1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Tối 30/3/2025, Lãnh đạo vào nhân dân Bình Định long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng tỉnh nhà. Thay mặt Đảng bộ và nhân dân Bình Định, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bình Định Hồ Quốc Dũng bày tỏ, vào những ngày tháng Ba lịch sử của 50 năm về trước, quân và dân tỉnh ta đã mở cuộc tổng tiến công giải phóng thị xã Quy Nhơn và tỉnh Bình Định trong chiến dịch mùa xuân năm 1975.

Tỉnh Bình Định vinh dự đón nhận Huân chương Độc lập hạng Ba do Chủ tịch nước trao tặng.
Với phương châm dựa vào sức mình là chính, “xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh”, qua 28 ngày đêm liên tục tiến công và nổi dậy, liên tục chiến đấu và chiến thắng. Đến 20 giờ ngày 31/3/1975 lá cờ chiến thắng của quân và dân Bình Định đã phấp phới tung bay trên nóc tiền sảnh Tòa Hành chính ngụy quyền Sài Gòn, đánh dấu thời khắc trọng đại trong lịch sử tỉnh nhà: Tỉnh Bình Định đã hoàn toàn giải phóng, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gần 21 năm trường kỳ và gian khổ trên quê hương Bình Định.
“Chiến thắng ngày 31/3 giải phóng Bình Định là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần bất khuất, là bản anh hùng ca tuyệt vời về đức hy sinh cao cả, ý chí cách mạng kiên cường của quân và dân ta; là kết quả của đường lối và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh tài tình của Đảng ta; là kết quả của cuộc tiến công thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng của các lực lượng vũ trang nhân dân; của sự nổi dậy mạnh mẽ, quyết liệt, rộng khắp của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh; góp phần quan trọng vào thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975, đưa cuộc trường chinh đầy hy sinh gian khổ vì độc lập, tự do của Tổ quốc đi đến thắng lợi cuối cùng”, Bí thư tỉnh ủy Bình Định chia sẻ.
Ông Hồ Quốc Dũng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bình Định đọc diễn văn tại Lễ kỷ niệm 50 năm giải phóng tỉnh Bình Định.
Ông Dũng nhấn mạnh, hôm nay và cho đến muôn đời sau, nhân dân Bình Định sẽ mãi mãi tự hào về những người con đã quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, chiến đấu anh dũng để giành lại từng ngôi nhà, từng ngõ phố, từng khu dân cư giữa bãi chiến trường vô cùng ác liệt. Có thể nói, mỗi con đường, mỗi góc phố, mỗi làng quê, thôn xóm, mỗi ngọn núi, dòng sông của quê hương Bình Định đều thấm đẫm máu đào của bao anh hùng liệt sĩ, đều ngời sáng những chiến công vẻ vang của quân và dân ta. Niềm tự hào và vinh quang ngời sáng này mãi mãi thuộc về đồng bào, chiến sĩ yêu quý của chúng ta - những con người đã làm nên chiến thắng.
Mừng kỷ niệm 50 năm ngày giải phóng tỉnh Bình Định (31/3/1975 – 31/3/2025), Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Bình Định khai mạc trưng bày tài liệu, tư liệu lưu trữ với chủ đề “Bình Định 50 năm xây dựng và phát triển” từ 28/3 - 5/5/2025
Triển lãm giới thiệu hơn 1.000 tài liệu, tư liệu, hình ảnh được trình bày qua hệ thống pano ngoài trời và các phòng trưng bày bên trong Trung tâm. Nội dung trưng bày được chia thành 3 chủ đề: Phát huy hào khí Tây Sơn, kiên cường quật khởi, tốc chiến tốc thắng; Bình Định trên đường đổi mới và phát triển (từ 1975 đến nay); danh xưng và địa giới hành chính tỉnh Bình Định.
Thông qua tổ chức trưng bày, công bố, giới thiệu tư liệu lịch sử trong kháng chiến chống Mỹ và ý nghĩa, giá trị lịch sử to lớn của Ngày Giải phóng tỉnh Bình Định (31/3/1975) trong sự nghiệp cách mạng đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; những dấu mốc quan trọng và thành tựu tỉnh Bình Định trong 50 năm xây dựng và phát triển; tuyên truyền sâu rộng về giá trị lịch sử của Ngày Giải phóng tỉnh Bình Định, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tinh thần đoàn kết và ý chí kiên cường của quân và dân Bình Định trong công cuộc đấu tranh giành độc lập và xây dựng quê hương. Đồng thời, sự kiện góp phần giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống yêu nước, khơi dậy niềm tự hào và trách nhiệm trong công cuộc phát triển tỉnh nhà; cổ vũ, động viên cán bộ, đảng viên và Nhân dân “tăng tốc, bứt phá” thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2025 cùng đất nước bước vào “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc".