Trong Tam quốc diễn nghĩa nổi tiếng không kém các vị quân sư mưu lược tài ba chính là đội hình Ngũ Hổ Tướng nhà Thục Hán.
Xuất phát từ cuốn sử Tam quốc chí của Trần Thọ dựa theo những cống hiến của các tướng lĩnh với nhà Thục Hán đã đặt 5 vị tướng ngang hàng và xếp vào cùng một quyển gọi là Quan Trương Mã Hoàng Triệu truyện, tác giả La Quán Trung đã thêu dệt nên chức Ngũ Hổ Tướng.
Ngũ Hổ Tướng.
Theo Tam quốc diễn nghĩa, Lưu Bị sau khi lên ngôi vào năm 219 đã lấy hiệu là Hán Trung Vương, sắc phong 5 vị dũng tướng - gồm Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu, Hoàng Trung - là Ngũ Hổ Thượng Tướng.
Quan Vũ
Quan Vũ.
Quan Vũ (sinh ? - mất 220), tự Vân Trường, quê ở Vận Thành, tỉnh Sơn Tây, miền bắc của Trung Quốc ngày nay. Ông cao chín thước, mặt đỏ như gấc, mắt phượng mày tằm, râu dài hai thước, oai phong lẫm liệt, là vị dũng tướng tiếng tăm lừng lẫy cuối thời Đông Hán. Từ trẻ theo phò trợ Lưu Bị, một lòng trung thành, xả thân vì chúa, ông cũng là vị dũng tướng mà Lưu Bị hết lòng tin cậy, phong làm Tiền tướng quân.
Với sức khỏe hơn người, Quan Vũ dùng thanh Thanh Long Yển Nguyệt đao nặng hơn 40 kg. Trong suốt cuộc đời chinh chiến, ông lập nhiều chiến công hiển hách, tiêu diệt khởi nghĩa Khăn Vàng, chém Hoa Hùng, đại tướng của Đổng Trác, chém Nhan Lương, Văn Xú, 2 tướng tài của Viên Thiệu, vượt 5 ải, chém 6 tướng của Tào Tháo, chiếm quận Trường Sa, thu phục được Hoàng Trung, bức hàng Vu Cấm, chém Bàng Đức.
Bên cạnh khí chất vũ dũng phi phàm, Quan Vũ có nhược điểm vì tính kiêu ngạo, không chịu dưới người khác, như việc ông có ý so sánh bản thân Mã Siêu, để Gia Cát Lượng phải lựa ý ca ngợi ông hơn hẳn, còn Mã Siêu chỉ xếp cùng hạng với Trương Phi mà thôi. Hay khi Lưu Bị phong ông làm Tiền tướng quân, Hoàng Trung là Hậu tướng quân, ông không bằng lòng nên Phí Vĩ phải lựa lời phân tích lý lẽ, ông mới chịu nhận chỉ.
Sử gia Trần Thọ, tác giả sách Tam quốc chí, bình luận về ông: “Quan Vũ sức địch vạn người, hổ thần một thời. Nhưng vũ cương và tự phụ, lấy sở đoản chuốc lấy thất bại, là lẽ thường vậy”.
Sau khi Quan Vũ mất, nhân dân tôn ông làm “Võ Thánh”, sánh ngang với Văn thánh Khổng Tử và được thờ cúng với tượng mặt đỏ, mày tằm hình chữ bát, mắt phượng sáng như sao, râu rồng rõ năm chòm, trán hùm thân lẫm liệt, tay cầm cây thanh long yểm nguyệt, cưỡi ngựa xích thố.
Trương Phi
Trương Phi.
Trương Phi (sinh ? – mất năm 221), tự Dực Đức, người tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc hiện nay. Trương Phi giữ chức Hữu tướng quân, sau khi Lưu Bị xưng đế, được phong làm Tây Hương Hầu. Ông sinh trưởng trong một gia đình nghèo, làm nghề bán rượu, thân hình to lớn, dung mạo oai phong, được học hành cả võ nghệ lẫn sách vở.
La Quán Trung miêu tả Trương Phi “cao tám thước, đầu báo, mắt tròn, râu hùm, hàm én”, tính cách vô cùng khẳng khái, bộc trực và rất nóng nảy. Tuy nóng tính và dữ dằn, nhưng dân chúng lại rất yêu quý hình tượng Trương Phi, vì ông đại diện cho vị võ tướng trượng nghĩa, căm ghét cái ác, và hết lòng hết sức vì anh em.
Trương Phi là người sát cánh cùng Lưu Bị từ thuở hàn vi, ông đã đóng góp rất nhiều cho sự ra đời của nước Thục. Trương Phi nổi tiếng với sức khỏe địch muôn người cùng với sự dũng cảm coi thường cái chết.
Ông lập nhiều chiến công hiển hách như tham gia dẹp giặc Khăn Vàng, chặn quân Tào Tháo ở trận Trường Bản, truy kích Tào Tháo ở trận Xích Bích, đánh Tây Xuyên, thu phục Nghiêm Nhan, giao tranh với Trương Cáp ở Ba Tây, đánh nhau với Mã Siêu…
Trương Phi thật sự là nỗi khiếp đảm của quân thù không chỉ là sức mạnh mà còn là cái uy kinh người. Ông thật sự là nỗi khiếp đảm của quân thù, trong trận Tương Dương, Trường Bản, tuy chỉ còn vài chục quân sĩ, còn quân Tào đông đến mấy trăm vạn, nhưng sự dũng mãnh của ông đã khiến Tào Tháo hoảng sợ phải lui quân. Trong trận ấy, Hạ Hầu Kiệt, viên quan theo hầu Tào Tháo đã hoảng sợ đến mức vỡ mật mà chết. Ông đã cùng đơn đấu với Lã Bố đến hơn 50 hiệp mà bất phân thắng bại.
Trương Phi tuy là bậc anh hùng có mưu có dũng, nhưng tính tình quá nóng nảy, dễ nổi giận lôi đình, khiến không ít lần bị rơi vào bẫy của kẻ địch, cuối đời còn mang họa sát thân.
Triệu Vân
Triệu Vân.
Triệu Vân (sinh ? - mất năm 229), tự là Tử Long, người huyện Chính Định Nam, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc ngày nay. Thuở nhỏ theo Công Tôn Toản, sau về phò trợ cho Lưu Bị. Ông có ngoại hình hùng dũng, uy phong lẫm liệt, giỏi võ nghệ và có tài thao lược, được đánh giá là bậc hổ tướng trí dũng song toàn.
Tam quốc diễn nghĩa có ghi rằng ông “cao tám thước, mắt rồng, mày rậm, má bầu, mặt rộng, sống mũi diều hâu, lưng sói, tay vượn, bụng beo, cưỡi Bạch Long mã, uy phong lẫm liệt”.
Ông nổi tiếng với tài dùng thương, mười dũng tướng của Tào Tháo không địch nổi một mình Triệu Vân. Với tài thương thuật của mình, Triệu Vân có thể dũng mãnh tả xung hữu đột, giành được chiến thắng trong vòng vây kẻ địch. Ông được Lưu Bị ngợi khen như là một vị võ tướng dũng khí có thừa.
Những chiến tích của Triệu Vân phải kể đến: phá trận Bát Môn kim Tỏa của Tào Nhân, hai lần cứu A Đẩu, một mình cưỡi Bạch Long mã phá vây hàng vạn quân Tào, chém gãy 2 lá cờ to, giết 50 danh tướng quân Tào, lấy được thanh gươm báu Thanh Công, thanh gươm báu mạ vàng của Tào Tháo, có thể chém gãy các loại binh khí. Ông cũng truy kích Tào Tháo ở trận Xích Bích, đánh Tây Xuyên, Hán Trung, đánh tộc người Man do Mạnh Hoạch chỉ huy, tham gia Bắc phạt do Gia Cát Lượng chỉ huy.
Sau khi Lưu Bị chiếm được Ích Châu, ông được phong làm Dực tướng quân, phò trợ Lưu Bị đánh Trung Hán. Kiến Hưng năm thứ 6 (tức năm 228), Triệu Vân dẫn quân hỗ trợ cho Gia Cát Lượng tiến đánh Quan Trung, tuy lúc này tuổi đã cao nhưng Triệu Vân vẫn hết sức dũng mãnh quyết chiến với quân địch, sau rút quân về được Hán Trung, năm sau thì mất.
Triệu Vân là hổ tướng có uy dũng, quả cảm trên chiến trường, nhưng có tình có nghĩa, chắc chắn, bình tĩnh, tận tụy, không nóng nảy xốc nổi như Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu. Trong chính sự, ông một lòng vì nước, có tư duy nhạy bén, suy nghĩ thấu đáo. Như khi Lưu Bị khởi quân đánh Tôn Quyền, để trả thù cho Quan Vũ, Triệu Vân đã đứng ra khuyên gián Lưu Bị “Quốc thù nên xem là trọng, tư thù nên xem là nhẹ”, nhưng Lưu Bị không nghe, kết quả quân Lưu Bị đại bại, Triệu Vân phải mang quân đến tiếp ứng rước về.
Mã Siêu
Mã Siêu.
Mã Siêu (176 - 222), tự Mạnh Khởi, quê ở Hưng Bình, huyện Thiểm Tây, Trung Quốc hiện nay. Là danh tướng của Thục Hán thời Tam Quốc. Mã Siêu được Lưu Bị hoàn toàn tin cẩn giao nhiều trọng trách quan trọng đồng thời tấn phong cho ông làm Tả tướng quân.
La Quán Trung mô tả và ước lệ hóa Mã Siêu trở thành một vẻ đẹp gần như tuyệt mỹ của một trang nam tử trẻ tuổi. “Mã Siêu là một viên tướng trẻ tuổi, mặt đẹp như ngọc, mắt sáng như sao, mình hổ tay vượn, bụng beo lưng sói, tay cầm một ngọn giáo dài, mình cưỡi con ngựa đẹp”.
Mãnh hổ của đội quân Thiết kỵ Tây Lương, nổi tiếng bởi lối đánh thần tốc, nhanh gọn. Vì đầu quân về với Lưu Bị khá trễ nên không được La Quán Trung miêu tả nhiều. Nhưng thực lực của Mã Siêu là không thể xem thường khi từng cầm quân đánh cho Tào Tháo chạy trối chết.
Mã Siêu được Tào Tháo và Dương Phụ ví như Lã Bố tái thế, Khổng Minh so sánh với Kình Bố, Bành Việt. Sức mạnh và sự uy dũng của ông được thể hiện trong những trận chiến mà ông tham gia, đặc biệt là hai trận đánh tay đôi với Hứa Chử, viên hổ tướng mạnh nhất của quân Ngụy và Trương Phi, một trong Ngũ Hổ tướng của Nhà Thục, là hai trong những trận đấu tướng hay nhất, hấp dẫn và kịch tính nhất trong Tam quốc.
Tuy vậy, qua tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa Mã Siêu về cơ bản được xếp vào hạng hữu dũng, võ biền, hay nóng giận, là một võ tướng chỉ đơn thuần dựa vào sức mạnh và uy dũng giống như Lã Bố.
Chính vì không đủ trí dũng song toàn để tham gia vào cuộc tranh hùng đầy khốc liệt trong thời kỳ này, nên cuộc đời binh nghiệp của Mã Siêu luôn gặp nhiều thất bại, liên tục bị mắc mẹo, bị bội phản, chiêu dụ. Tuy được xếp hạng hổ tướng, được Lưu Bị tin dùng, nhưng cuộc đời riêng của ông gặp nhiều đau khổ, không báo được thù cha, cả gia tộc hơn 200 người đều bị Táo Tháo hại chết.
Hoàng Trung
Hoàng Trung.
Hoàng Trung (sinh ? - mất năm 220), tên tự Hán Thăng, người tỉnh Nam Dương, Hà Nam, Trung Quốc hiện nay. Ông là danh tướng cao tuổi nhất trong ngũ hổ tướng. Ông vốn giữ chức Trung Lương tướng quân, là thuộc hạ của Lưu Biểu, sau đầu quân cho Lưu Bị và giúp Lưu Bị đánh Lưu Chương, chiếm Ích Châu.
Dù công trạng không quá nhiều, nhưng sức vóc của ông ở tuổi già như thế, thử hình dung một Hoàng Trung ở tuổi trẻ sung mãn sẽ còn khủng khiếp như thế nào? Tuổi già của Hoàng Trung đúc kết lại ở khả năng bắn cung kiệt xuất. Theo Tam quốc diễn nghĩa, nếu không vì nể cái nghĩa mà nương tay, có khi trận so tài năm ấy, Quan Vũ có thể đã chết dưới mũi tên của Hoàng Trung.
Sau khi Quan Vũ bị Đông Ngô chém thủ cấp, để báo thù cho nhị đệ, Lưu Bị dẫn quân thảo phạt Đông Ngô. Khi giao chiến, Quan Hưng, Trương Bào liên tục trảm tướng giết địch quân, Lưu Bị hết mực tán thưởng thiếu niên tuổi trẻ tài cao, Hoàng Trung tự thấy mình là bậc lão tướng, có phần không phục, bèn đơn thương độc mã khiêu chiến.
Khi giao tranh, thấy tướng Đông Ngô là Phan Chương tay cầm thanh long đao yểm nguyệt của Quan Vũ, Hoàng Trung nóng vội muốn báo thù, nên đã khinh suất trúng mai phục của quân địch, và bị Mã Trung bắn tên trúng vai. Năm đó Hoàng Trung tuổi tác đã cao lại cộng thêm vết thương mất nhiều máu, không lâu sau ông qua đời.
Nếu xét về danh tiếng và chiến công riêng hiển hách, võ thánh Quan Vũ sẽ đứng vị trí cao nhất. Tuy vậy, nếu xếp cả về đức độ, tài thao lược, trí dũng song toàn, chắc hẳn Triệu Vân sẽ đứng đầu. Các vị trí dưới lần lượt xếp theo Trương Phi, Mã Siêu và Hoàng Trung. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là phỏng đoán vì thực sự các mãnh tướng này đầu về cùng một chủ nên cũng không mấy khi có dịp so tài thật sự.
La Quán Trung đã "dìm hàng" Lưu Bị như thế nào trong Tam quốc?
Trong Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, La Quán Trung mô tả Lưu Bị là người nhân nghĩa nhưng nhu nhược, chẳng có tài cái ... |
Tam Quốc: Lai lịch bí ẩn về chiếc quạt lông vũ của Gia Cát Lượng
Trong Tam Quốc diễn nghĩa, hình ảnh Gia Cát Lượng luôn gắn liền với chiếc quạt lông vũ trên tay. Nhưng ít ai biết rằng, ... |