Chiều 27-12, phiên tòa phúc thẩm xem xét kháng cáo của các bị cáo trong vụ "đất vàng" Bình Dương chuyển sang phần tranh luận. Viện kiểm sát nhân dân Cấp cao tại Hà Nội đã nêu quan điểm giải quyết đơn kháng cáo của các bị cáo.
Các bị cáo có đơn kháng cáo trong vụ án này là Trần Thanh Liêm (cựu Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương), Trần Nguyên Vũ (cựu Tổng giám đốc Tổng công ty Bình Dương), Lý Thanh Châu (cựu Thành viên HĐTV, Phó tổng giám đốc Tổng Công ty Sản xuất - xuất nhập khẩu Bình Dương – TNHH MTV), Đỗ Thị Thanh Thúy (cựu Kế toán trưởng Tổng công ty sản xuất - xuất nhập khẩu Bình Dương – TNHH MTV).
Cả 4 bị cáo nêu trên đều có đơn xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa, các bị cáo đều giữ nguyên kháng cáo. Tại phiên tòa, một số bị cáo đưa ra chứng cứ mới là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Các bị cáo có kháng cáo trong vụ "đất vàng" Bình Dương tại phiên tòa phúc thẩm. |
Sau gần 1 ngày xét xử, đại diện Viện kiểm sát (VKS) nêu quan điểm về đường lối giải quyết kháng cáo của cựu Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương Trần Thanh Liêm và 3 bị cáo liên quan.
Theo VKS, xét hành vi phạm tội “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát lãng phí”, bị cáo Trần Văn Nam (cựu Bí thư Tỉnh ủy Bình Dương) biết rõ nội dung đề xuất áp đơn giá đất bình quân năm 2006 để thu tiền sử dụng đất theo các quy định giao đất năm 2012 và 2013 là trái quy định, nhưng vẫn ban hành công văn để thu tiền sử dụng đất của Tổng Công ty Bình Dương, gây thất thoát cho Nhà nước hơn 716 tỉ đồng.
Các bị cáo nguyên là lãnh đạo Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bình Dương và một số cơ quan tham mưu của tỉnh Bình Dương đều biết việc bị cáo Nguyễn Văn Minh (cựu Chủ tịch HĐTV Tổng công ty Bình Dương) và đồng phạm chuyển nhượng 43 ha “đất vàng” và 30% vốn góp tại Công ty Tân Phú cho tư nhân là trái quy định, gây thất thoát tài sản Nhà nước.
Cựu Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương Trần Thanh Liêm tại phiên tòa phúc thẩm. |
Theo VKS, các bị cáo Trần Văn Nam, Trần Thanh Liêm với trách nhiệm được giao là bảo vệ tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp, các bị cáo biết rõ việc chuyển nhượng là trái quy định nhưng bị cáo không có quyết định ngăn chặn mà vẫn tạo điều kiện cho Nguyễn Văn Minh thực hiện một loạt hành vi sai phạm. Hành vi của các bị cáo dẫn tới việc tài sản của Nhà nước bị thất thoát đặc biệt lớn.
Liên quan đến sai phạm trong việc không xác định quyền sử dụng đất đối với khu đất 145ha, VKS cho biết quá trình cổ phần hóa Tổng công ty Bình Dương, bị cáo Nguyễn Văn Minh cùng các đồng phạm cố ý loại trừ khu đất này, không tính vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa, gây thất thoát cho Nhà nước số tiền hơn 4.030 tỉ đồng.
Bị cáo Trần Thanh Liêm biết rõ chủ trương của Tỉnh ủy phải được kế thừa tính vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa, nhưng Liêm vẫn ký quyết định phê duyệt giá trị doanh nghiệp mà không có khu đất 145ha.
Ngoài ra, do cần có nguồn tiền để xử lý khoản nợ mà bị cáo Minh cùng các bị cáo Trần Nguyên Vũ, Huỳnh Thanh Hải sử dụng trước đó và cần tiền để xử lý các vấn đề tài chính khác, bị cáo Nguyễn Văn Minh đã đưa ra chủ trương và chỉ đạo thực hiện việc chi gần 965 tỉ đồng để mua 9.120.000 cổ phần với giá 105.737 đồng/cổ phần, gây thiệt hại cho Tổng công ty Bình Dương hơn 815 tỉ đồng.
Với các căn cứ nêu trên, theo VKS, Tòa cấp sơ thẩm đã tuyên phạt các bị cáo theo đúng tội danh mà Viện KNSD tối cao truy tố là đúng người, đúng tội, không oan. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo đều thừa nhận hành vi rõ ràng.
Xét vai trò của từng bị cáo, trong đó, đối bị cáo Trần Thanh Liêm (cựu Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương), VKS nhận định bị cáo có vai rò quan trọng thứ 2 trong vụ án. Tòa sơ thẩm đã xem xét hết các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho bị cáo, mức án 7 năm tù là phù hợp. Tại phiên phúc thẩm, VKS thấy bị cáo đã ăn năn, hối cải, khắc phục hậu quả nên VKS đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ 1 phần hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo Vũ được VKS nhận định là đã hợp tác với cơ quan điều tra, tích cực khắc phục hậu quả, đây là ý thức ăn năn hối cải. Do đó, VKS thấy có cơ sở giảm nhẹ 1 phần hình phạt cho bị cáo ở tội danh “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát lãng phí”.
Đối với bị cáo Châu, VKS nhận thấy HĐXX sơ thẩm tuyên phạt 4 năm 6 tháng tù là có cơ sở. Đến phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới nên VKS không có cơ sở chấp nhận kháng cáo.
Đối với bị cáo Thúy, VKS cho rằng án sơ thẩm đã vận dụng tình tiết giảm nhẹ, bị cáo đã hợp tác với cơ quan điều tra… Tại phiên phúc thẩm, VKS đề nghị HĐXX ghi nhận tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội khi đang trong thai kỳ”, nhưng theo VKS, mức án sơ thẩm đã tuyên (30 tháng tù) là phù hợp, từ đó VKS đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Thúy.