Để sửa luật sửa đổi hợp lý, cần xác định rõ 2 đối tượng nộp thuế là cá nhân và pháp nhân, trong đó cá nhân bao gồm thể nhân, hộ kinh doanh, hộ gia đình và các đối tượng khác không phải là pháp nhân.
5 luật thuế dự kiến được sửa đổi, bổ sung (Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật Thuế tài nguyên, Luật Thuế thu nhập DN và Luật Thuế thu nhập cá nhân) đều đã được ban hành gần 10 năm (từ 2007 - 2009) và đều đã được sửa đổi, bổ sung từ 1 - 3 lần. Nhưng ở lần sửa đổi này, các vấn đề cần sửa đổi được nêu ra chưa thể hiện rõ quan điểm “đảm bảo đúng bản chất của từng sắc thuế, đảm bảo tính nhất quán, rõ ràng, minh bạch, đơn giản, giảm thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho người nộp thuế và tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh”.
Để sửa luật sửa đổi hợp lý, cần xác định rõ 2 đối tượng nộp thuế là cá nhân và pháp nhân, trong đó cá nhân bao gồm thể nhân, hộ kinh doanh, hộ gia đình và các đối tượng khác không phải là pháp nhân. Còn pháp nhân bao gồm các DN, trừ DN tư nhân, các cơ quan nhà nước và các tổ chức khác có tư cách pháp nhân.
Chỉ cần 1 mức thuế suất để chống trốn thuế, lách thuế
Thuế giá trị gia tăng là loại thuế gián thu, đánh vào người tiêu thụ, đặc biệt là người tiêu dùng cuối cùng, tuy nhiên vẫn ảnh hưởng tăng chi phí, giảm lợi nhuận trực tiếp đến DN nói riêng và nền sản xuất kinh doanh nói chung. Tôi cho rằng cần giải quyết vấn đề thu đúng, thu đủ, công bằng để chống thất thu thay vì tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng từ 10% lên 11% hoặc 12%.
Không nên áp các mức thuế suất khác nhau, mà nên áp dụng thống nhất 1 mức thuế suất 10% để bảo đảm sự đơn giản, công bằng, thuận tiện trong việc áp dụng, đặc biệt là đối với các DN hoạt động đa ngành, đan xen nhau đồng thời cũng tránh việc lợi dụng trốn thuế, lách thuế.
Thực chất thuế tiêu thụ đặc biệt là hạn chế tiêu dùng, là không khuyến khích tiêu dùng. Tuy nhiên cần xem xét xác định lại lý do của việc điều tiết, hạn chế tiêu dùng, vì nguy hiểm, độc hại hay vì xa xỉ, lãng phí hay vì lý do gì khác? Nếu vì sự nguy hiểm độc hại, thì đã đánh thuế bảo vệ môi trường. Do vậy, “xăng các loại” vừa bị đánh thuế bảo vệ môi trường, vừa bị đánh thuế tiêu thụ đặc biệt là không hợp lý. Nếu vì sự xa xỉ, lãng phí thì chỉ phù hợp đối với nền kinh tế bao cấp ngày xưa, mà không đúng với nền kinh tế thị trường, khuyến khích tự do sản xuất, kinh doanh đồng thời với việc khuyến mại, khuyến khích tiêu dùng.
Trong nền kinh tế hàng hóa thị trường, nguy cơ lớn nhất của kinh doanh là không bán được hàng, thì cần loại bỏ các hàng hóa như “điều hoà nhiệt độ”, “tàu bay” (chở khách), ô tô (nhất là chở khách), “xăng các loại” (dự kiến bổ sung)… khỏi đối tượng thu thuế tiêu thụ đặc biệt. Tương tự cũng cần loại bỏ các dịch vụ “kinh doanh mát-xa”, “ka-ra-ô-kê” ra khỏi đối tượng bị đánh thuế tiêu thụ đặc biệt, vì cần được coi đó là dịch vụ chăm sóc sức khỏe hữu ích, bình thường, thậm chí bình dân và dịch vụ văn hóa bổ ích, phổ biến, đời thường.
Cũng không thể vin vào lý do giảm thuế nhập khẩu thì phải tăng thuế tiêu thụ đặc biệt. Vậy thì cam kết quốc tế còn có ý nghĩa gì, khi mà cam kết giảm thuế, nhưng thực chất vẫn giữ nguyên?
Cần chống gian lận thay vì can thiệp quyền tự do kinh doanh
Về thuế thu nhập DN, chi phí của DN này là thu nhập của cá nhân và pháp nhân khác, vì vậy cần được thừa nhận một cách tối đa. Vấn đề là chống gian lận, gian dối, chứ không phải là việc can thiệp vào quyền tự do kinh doanh hay yêu cầu tiết kiệm chi phí kinh doanh, vì đó là việc của DN.
Việc khống chế chi phí được trừ đối với chi phí trả lãi tiền vay vốn tương ứng với khoản vay vượt quá nhiều lần vốn chủ sở hữu (vốn mỏng) là không hợp lý, nếu như đó là chi phí cần thiết, hợp lý. Luật Thuế không nên làm thay chức năng của các luật khác nhằm bảo đảm tỷ lệ an toàn vốn của ngành Ngân hàng, tỷ lệ an toàn tài chính cho DN, gia tăng nợ xấu… Cần loại bỏ những quy định loại trừ các khoản chi phí hợp pháp, hợp lệ, thực tế nói chung và chi phí trả lãi tiền vay nói riêng để tránh tình trạng DN không có lãi, thậm chí bị lỗ nhưng vẫn phải nộp thuế thu nhập.
Không nên áp dụng mức thuế suất thu nhập DN khác nhau 15 - 17 - 20% theo quy mô doanh thu, lao động, vì phức tạp, không hợp lý, không có nhiều ý nghĩa thực tế, dễ bị gian lận, lợi dụng, vô tình khuyến khích DN duy trì quy mô nhỏ, khó phát huy được lợi thế hiệu quả, cạnh tranh.
Trong nội dung sửa thuế thu nhập cá nhân, ngoài việc bổ sung khoản thuế thu nhập từ “tiền lãi cho vay” của cá nhân, cần phải quy định thêm việc đánh thuế đối với tiền gửi nói chung, tiền gửi tiết kiệm nói riêng tại các tổ chức tín dụng khi vượt một mức nhất định, chẳng hạn cao hơn 2 lần mức thuế khởi điểm mức thu nhập tính thuế thu nhập cá nhân (tính theo năm).
Thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập bất thường, cần tính theo từng khoản thu nhập, không cộng dồn, tránh phức tạp, thu không được bao nhiêu. Cần giảm 7 mức thuế suất thuế thu nhập cá nhân hiện hành (5 - 10 - 15 - 20 - 25 - 30 - 35%) và 5 mức theo đề xuất sửa đổi (5 - 10 - 20 - 25 - 35%) xuống 3 mức (5 - 10 - 20%) và giảm mức cao nhất từ 35% xuống bằng mức thuế suất thu nhập DN 20%.
Theo dự thảo có nhiều khoản thu nhập tính thuế riêng, không tính vào thu nhập chung như bán bất động sản, chứng khoán... Nhưng thu nhập vãng lai từ 2 triệu đồng trở lên thì lại phải cộng dồn cả năm để tính thuế, quá phức tạp, không được bao nhiêu. Vì vậy cần quy định các khoản thu nhập bất thường, nhất là các khoản nhỏ lẻ, tính theo biểu thuế riêng để đỡ phức tạp, tránh tình trạng hiện nay phải theo dõi, tính toán, khấu trừ mỗi khoản từ 2 triệu đồng trở lên, thậm chí các khoản 500.000 đồng không bị khấu trừ thuế tại nguồn, nhưng cũng vẫn phải cộng dồn để quyết toán thuế cuối năm.
Trong khi các khoản thu nhập bất thường từ nhuận bút, nghiên cứu khoa học có thể phải chịu thuế 20 - 30% (do đã có các khoản thu nhập khác), thì thuế thu nhập đối với các khoản trúng thưởng hiện nay dù hàng trăm tỷ đồng cũng chỉ phải nộp 10% là quá bất công. Dự kiến sửa đổi Biểu thuế lũy tiến từng phần đối với thu nhập tính thuế từ trúng thưởng đến 5 tỷ đồng chỉ phải nộp thuế 10%, từ hơn 5 tỷ đến 10 tỷ đồng là 20% và trên 10 tỷ đồng là 20% cũng vẫn là quá bất hợp lý.