Niềm tin như chồi xanh, tốt tươi khi mùa xuân đến

Niềm tin cũng như chồi xanh, chỉ phát triển khi xuân sang chứ không phải lúc thu về.

Trong phiên chất vấn tại nghị trường, đại biểu Quốc hội Phạm Thị Minh Hiền nêu câu hỏi với Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình: “Chính phủ có cần đến niềm tin của người dân nữa hay không?”.

Câu hỏi ấy tuy chỉ hạn chế với đối tượng là Chính phủ song có thể hiểu không chỉ dành cho Chính phủ mà còn cho Nhà nước, các tổ chức chính trị, đoàn thể hoạt động bằng ngân sách nhà nước, tức là bằng tiền thuế của dân.

Thay vì chỉ hỏi riêng Chính phủ, câu hỏi của đại biểu Phạm Thị Minh Hiền sẽ trở nên hoàn thiện hơn nếu đặt vấn đề: “Nhà nước có cần đến niềm tin của người dân nữa hay không?”.

Câu hỏi của đại biểu Phạm Thị Minh Hiền cần phải được hiểu theo hai hướng: Nhà nước có cần niềm tin của dân không và dân có còn tin Nhà nước không?

Đặt câu hỏi như trên là cần thiết vì thực sự các văn kiện của Đảng không chỉ nêu nhận định “dân giảm sút niềm tin vào Đảng” mà còn vào “chế độ” tức là thể chế chính trị, nói khác đi là Nhà nước.

Nhận định này là dựa vào Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI: “có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”.

Khái niệm “chế độ” nêu trong Nghị quyết bao quát tất cả các nhánh quyền lực, từ lãnh đạo đường lối đến lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Việc xuất hiện câu hỏi của người đại biểu cho dân tại hội trường Diên Hồng vào thời điểm này, tự thân nó cho thấy chính quyền chưa (hoặc không) thể hiện thái độ cần đến niềm tin của dân, ngược lại, có dấu hiệu cho thấy niềm tin của dân vào chính quyền đã suy giảm đến mức báo động.

Vì sao lại có sự trái ngược đến kỳ lạ giữa đối nội và đối ngoại, vì sao triển vọng kinh tế của Việt Nam được thế giới đánh giá là sáng sủa, quan hệ quốc tế, đặc biệt là với các nước lớn được cải thiện rất nhiều khiến nguồn vốn đổ vào Việt Nam tăng nhưng giữa người dân và Chính quyền lại xuất hiện câu hỏi có tin nhau hay không?

Liệu chúng ta có bị các cường quốc lợi dụng trong ván bài địa chính trị khu vực khiến người ta dễ bỏ qua các vấn đề nội bộ của người Việt hay thực sự chúng ta có thành tích ấn tượng trong phát triển kinh tế và các chính sách xã hội?

Sau những năm tháng chống ngoại xâm, sau thời kỳ bị nhiều nước xúm vào cô lập, những tưởng chúng ta có đủ thiên thời, địa lợi, nhân hòa để an tâm xây dựng đất nước.

Thực tế cho thấy những năm đầu thế kỷ 21 này, chúng ta đang bộc lộ một số bất cập trong cả bốn lĩnh vực quan trọng nhất là: chính trị, kinh tế, văn hóa, an sinh xã hội.

Tồn tại bốn câu hỏi liên quan đến bốn lĩnh vực nêu trên:

Vì sao niềm tin của dân chúng vào chế độ suy giảm?

Vì sao có quá nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ?

Vì sao đạo đức xã hội xuống cấp?

Vì sao sự bất bình đẳng trở nên phổ biến trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là tư pháp?

Bài viết: “Củng cố và giữ vững lòng tin chính trị của nhân dân với Đảng” đăng trên Tạp chí Cộng sản viết: “Đảng phải thực hiện bằng được các cam kết chính trị của mình với dân tộc, trên các vấn đề cơ bản về kinh tế, chính trị, văn hóa, an sinh xã hội”.

Cam kết chính trị của Đảng với dân tộc chỉ có thể thành hiện thực nếu tất cả cán bộ, đảng viên cùng quyết tâm thực hiện.

Khi một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên “ăn của dân không từ một thứ gì” thì dù lãnh đạo cấp cao có quyết tâm đến mấy cũng khó thực hiện.

Một nguyên lý rất đơn giản, ai cũng biết là cần “tinh” không cần “đông”.

Với đội ngũ hơn 4 triệu đảng viên vì sao Trung ương lại buộc phải nhận định “uy tín và sức chiến đấu của Đảng bị giảm sút”?

Nói chính xác thì như nhận định trong bài “Khơi dậy lương tâm và trách nhiệm người đảng viên” trên Nhandan.com.vn:

“Điều rất đáng lo ngại là nhiều đảng viên thụ động, vô cảm trước những biểu hiện tiêu cực, vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên bị lu mờ.

Do đó, niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền giảm sút…”

Nguyên nhân góp phần vào việc làm cho “sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên bị lu mờ” chính là “một số vụ tham nhũng, tiêu cực không được làm đến cùng, mức độ xử lý không đủ sức răn đe” như nhận định trong bài báo đã dẫn.

Tìm hiểu nhiều thông báo kỷ luật qua các kỳ họp của Ủy ban Kiểm tra Trung ương các nhiệm kỳ trước, chưa thấy một vụ án hình sự nào được mở với những cán bộ cao cấp (Bí thư, Chủ tịch tỉnh…) có sai phạm mặc dù những sai phạm ấy được đánh giá là nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng, ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức Đảng, gây thiệt hại nhiều tỷ đồng cho ngân sách.

Thời gian gần đây, dưới sự chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã đưa một số vụ việc ra xem xét nhưng cho đến nay, nhận định trên báo Nhân Dân “mức độ xử lý không đủ sức răn đe” hình như vẫn chưa mất tính thời sự.

Đúng là chưa có thời kỳ nào trong lịch sử, số cán bộ cao cấp bị xử lý nhiều như hiện nay.

Điều mà người dân mong mỏi là ý kiến của Tổng Bí thư “Ở đây tôi nói lại là mới xử lý về mặt kỷ luật đảng, còn về mặt hành chính, hình sự đang làm” sẽ sớm được thực hiện.

Trong quá khứ, dường như xử lý cán bộ cao cấp sai phạm chỉ là công việc nội bộ.

Nhiều ý kiến nói đến tình trạng “nhờn luật”, vô hiệu hóa luật pháp xảy ra nơi này, nơi khác trong hệ thống tư pháp Việt Nam.

Thực ra đây chỉ là cách thể hiện khác của nhận định “mức độ xử lý không đủ sức răn đe”.

Chính vì thế dù quyết tâm xây dựng một “Nhà nước kiến tạo”, dù không thiếu chế tài, tuyên bố thì một bộ phận tội phạm không phải thường dân vẫn nhởn nhơ và niềm tin của dân vẫn chưa trở lại.

Quan trọng nhất hiện nay không phải là tìm chiếc “mâu” đủ sắc để đâm thủng chiếc “thuẫn” an toàn của những kẻ thoái hóa biến chất mà hãy học tập tinh thần thời toàn quốc kháng chiến:

“Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Toàn dân phải ra sức chống bọn tham nhũng cứu nước”.

Một năm trước, tại Hội nghị Ban Dân vận Trung ương tổ chức ngày 27/5/2016 tại Hà Nội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói:

“Có những cán bộ, đảng viên chỉ lo thu vén cá nhân, xoay xở làm giàu, ăn uống chè chén bê tha; thậm chí có người vô trách nhiệm với dân, vô cảm trước những khó khăn, đau khổ của quần chúng.

Một số người còn lợi dụng chức quyền để đục khoét, vơ vét của cải của Nhà nước, của tập thể, trở thành những con sâu mọt tệ hại của xã hội. Đây là điều mất mát lớn nhất trong tình cảm của nhân dân”.

Nếu các cấp bộ Đảng chưa quán xuyến hết được chính đảng viên của mình thì thật khó để thực hiện cam kết với dân tộc.

Một khi cán bộ, đảng viên được bảo vệ quá mức cần thiết, được “đặc cách” trong không ít trường hợp vi phạm thì thật khó để đòi hỏi dân mến, dân tin.

Một năm sau khi Tổng Bí thư cảnh báo quyết liệt như vậy, người ta lại thấy những sự thật khó tin.

Trước đây chỉ khi hạ cánh an toàn người ta mới bắt đầu xây nhà thờ, biệt thự, ngày nay, người ta công khai tài sản siêu khủng ngay khi đương chức, khi còn lâu mới đến “hoàng hôn nhiệm kỳ”.

Làm Giám đốc sở mà ung dung xây dinh cơ tới hơn 13 nghìn mét vuông thì lấy đâu ra tiền.

Làm Bí thư tỉnh mà bảo không biết em trai có dinh cơ siêu khủng thì liệu có thể tin?.

Làm Thứ trưởng mà tài sản có nhiều tỷ thì phục vụ nhân dân thế nào?

Tất cả những ví dụ ấy không phải là dân thường, cũng không phải là đảng viên thường, họ đều thuộc diện do trung ương quản lý.

Người ta không biết đến ý kiến của lãnh đạo cao nhất của Đảng hay người ta tin rằng, cùng lắm là rút kinh nghiệm và chuyển công tác?

Đất nước lúc này cần niềm tin của dân nhưng cũng cần một bàn tay sắt, có đủ sức mạnh và lực lượng để tiêu diệt bọn hại dân, hại nước chứ không phải chỉ bắt “nghiêm túc rút kinh nghiệm sâu sắc”.

Càng nghiêm túc rút kinh nghiệm, càng nhiều kẻ ngông nghênh coi thường phép nước, càng có nhiều “dòng họ làm quan”.

Trở lại câu hỏi của đại biểu Quốc hội Phạm Thị Minh Hiền “Chính phủ có cần đến niềm tin của người dân nữa hay không?”. Chắc chắn là Chính phủ cần, rất cần song dân có đáp ứng được sự “cần” của Chính phủ?

Niềm tin cũng như chồi xanh, chỉ phát triển khi xuân sang chứ không phải lúc thu về.

/ Theo báo Giáo dục