Cùng với những hành động bất chấp chủ quyền các bên liên quan và luật pháp quốc tế nhằm hiện thực hóa tham vọng độc chiếm Biển Đông theo yêu sách đơn phương “đường lưỡi bò 9 đoạn”, Trung Quốc còn tiến hành các hoạt động khai thác tận diệt cũng như bồi đắp trái phép làm hủy diệt nguồn thủy sản trong vùng biển này với “đạo quân hàng hải” áp đảo là những tàu cá công suất lớn, ngày càng hung hăng.
Biển Đông không chỉ là vùng biển có vị trí địa chính trị chiến lược trọng yếu, tuyến vận tải biển huyết mạch quan trọng hàng đầu thế giới mà còn là vùng biển có nguồn tài nguyên giàu có, phong phú như thủy sản, dầu khí… Trong đó, Biển Đông được xem là một trong những “vựa cá” khổng lồ của thế giới, với lượng đánh bắt hàng năm chiếm khoảng 12% tổng lượng cá đánh bắt được trên toàn cầu, cho doanh thu tới hàng chục tỷ USD.
“Đạo quân hàng hải” hung hăng
Có tổng diện tích khoảng 3.447.000km2 trải rộng từ eo biển Đài Loan tới Singapore, Biển Đông có tới 3.365 loài hải sản sinh sống. Nguồn sinh vật biển phong phú này còn đáng giá hơn cả doanh thu cả chục tỷ USD mỗi năm bởi chúng giúp đảm bảo an ninh lương thực cho số dân lên tới hàng trăm triệu người ven vùng biển này.
Những số liệu nghiên cứu cho thấy các quốc gia, vùng lãnh thổ quanh Biển Đông phụ thuộc lớn vào nguồn hải sản dồi dào để sinh sống bởi khi lượng hải sản giảm thì số người bị suy dinh dưỡng cũng tăng lên. Nghề khai thác hải sản ở Biển Đông đã tạo công ăn việc làm trực tiếp cho 3,7 triệu người và được xem là nghề quan trọng nhất với những quốc gia, vùng lãnh thổ ven biển.
Tuy nhiên, nguồn tài nguyên hải sản Biển Đông hiện đang đứng trước thách thức nghiêm trọng khi đang bị khai thác quá mức với lượng cá ước tính đã giảm 70% kể từ năm 1950. Một trong những “tác nhân hủy diệt” đáng sợ đối với nguồn hải sản ở Biển Đông là đội tàu cá của Trung Quốc.
Do nhu cầu của thị trường nội địa có số dân đông nhất thế giới với gần 1,4 tỷ người, số lượng tàu cá của Trung Quốc “hoành hành” trên Biển Đông áp đảo so với các quốc gia và vùng lãnh thổ quanh vùng biển này. Hơn nữa, do được sự hỗ trợ lớn từ chính phủ, tàu cá Trung Quốc có công suất và tải trọng vượt trội so với tàu cá của các quốc gia, vùng lãnh thổ khác trong khu vực.
Với số lượng áp đảo và công suất lớn, các tàu cá Trung Quốc luôn tỏ ra hung hăng trong việc tranh giành các ngư trường, luồng cá trong quá trình đánh bắt trên Biển Đông, gây ra không ít các vụ va chạm, đụng độ với tàu cá của các quốc gia, vùng lãnh thổ khác. Tàu cá Trung Quốc liên tục xâm phạm vào vùng biển thuộc chủ quyền các bên khác trên Biển Đông. Thậm chí, vào tháng 3-2016, tàu cá Trung Quốc còn chẳng ngán ngại khi đụng độ với lực lượng tàu chiến của Indonesia ở vùng biển Natuna.
Trên thực tế, đội tàu cá của Trung Quốc đã được dùng như một công cụ ủy nhiệm để ngang ngược chiếm biển. Đội tàu cá hung hăng của Trung Quốc được nước này coi là “đạo quân hàng hải” đúng nghĩa như đang “hộ tống” tàu khảo sát Hải Dương 8 xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế, vùng thềm lục địa của Việt Nam suốt từ đầu tháng 7 tới nay. Lực lượng tàu tuần duyên, chấp pháp của Trung Quốc đóng vai trò rất quan trọng cung cấp hỗ trợ kho vận, nhiên liệu và bảo vệ đội tàu cá Trung Quốc trong tình huống va chạm, tranh chấp trên Biển Đông.
Các đội tàu đánh cá của Trung Quốc vì thế chẳng khác nào chiếc mũi nhọn của ngọn giáo trong tham vọng mở rộng quyền kiểm soát Biển Đông của Trung Quốc. Các tàu đánh cá của Trung Quốc với sự bảo vệ sát sao của các tàu vũ trang, dân quân biển… của Trung Quốc đang ngày càng tỏ ra hung hăng hơn hòng đẩy ngư dân các nước láng giềng ra khỏi ngư trường truyền thống của họ.
“Tác nhân hủy diệt” đáng sợ ở Biển Đông
Không chỉ hung hăng, đội tàu cá Trung Quốc đang khai thác theo kiểu “hủy diệt” nguồn hải sản ở Biển Đông. Một trong những hành vi khai thác tận diệt đó được thấy qua việc đội tàu cá của Trung Quốc khai thác trai khổng lồ trên Biển Đông.
Theo đó, khi tìm thấy một rạn san hô, ngư dân Trung Quốc xuống những chiếc thuyền nhỏ và sử dụng những quạt máy bằng đồng khuấy nát các rạn san hô cho đến khi những con trai biển khổng lồ lộ ra. Do trai biển thường ẩn trú sâu trong các rạn san hô trên Biển Đông nên ngư dân Trung Quốc đã không do dự phá nát cả rạn san hô rộng lớn. Dù việc làm này gây hại nghiêm trọng cho môi trường biển, nhưng ngư dân Trung Quốc bất chấp tất cả vì lợi nhuận quá cao mà công việc này mang lại.
Những con trai biển khổng lồ có thể có vỏ rộng đến 1,2m, nặng lên tới 180kg. Mỗi con trai biển khổng lồ có giá lên đến hàng chục nghìn USD trên thị trường hải sản ở đảo Hải Nam, Trung Quốc. Đặc biệt, những chiếc vỏ trai khổng lồ sau khi được chế tác thành những tác phẩm điêu khắc tinh xảo còn có thể bán được 1 triệu USD.
Lòng tham vô đáy đang tàn phá vô cùng nghiêm trọng rạn san hô quý giá ở Biển Đông, mà theo nghiên cứu của Giáo sư sinh thái và sinh học biển thuộc Đại học Miami (Mỹ) John McManus, lên tới hơn 25.000 rạn san hô đã bị phá hủy theo cách này. Phát hiện của Giáo sư McManus cũng chính là một trong những bằng chứng được Tòa án trọng tài thường trực (PCA) xem xét khi đưa ra phán quyết trong vụ kiện Trung Quốc của Philippines vào năm 2016.
Phán quyết của PCA đưa ra tháng 7-2016 là đòn giáng mạnh, bác bỏ yêu sách đòi chủ quyền phi lý “đường lưỡi bò 9 đoạn” (còn gọi là “đường lưỡi bò” hay “ đường 9 đoạn”) của Trung Quốc ở Biển Đông. Cũng sau phán quyết quốc tế này, đội tàu cá Trung Quốc “tận diệt” trai biển khổng lồ trên Biển Đông đã tạm ngừng hoạt động một thời gian.
Tuy nhiên, các đội tàu khai thác tận diệt của Trung Quốc cũng đã quay trở lại vào cuối năm 2017, và còn đáng sợ hơn trước khi được trang bị kỹ thuật khai thác mới là hệ thống nén áp suất cao và điều này gây ảnh hưởng tồi tệ hơn đối với hệ sinh thái biển khi gây ra những “đám mây” trầm tích rộng lớn.
Sự nguy hiểm của tham vọng phi pháp
Sự tham lam ngày càng lớn đối với nguồn tài nguyên hải sản là một động cơ thúc Trung Quốc ráo riết hơn trong việc hiện thực hóa tham vọng độc chiếm Biển Đông và chính tham vọng này cũng lại góp phần hủy hoại thêm môi trường biển. Ông Gregory Poling, Giám đốc chương trình Sáng kiến Minh bạch hàng hải châu Á (AMTI) thuộc Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS), cho rằng, việc khai thác trai biển khổng lồ cũng nhằm phục vụ chiến lược rộng lớn hơn của Trung Quốc nhằm thiết lập quyền kiểm soát biển, đáy biển và không phận phía trên vùng biển đó ở Biển Đông. Ông Poling chỉ rõ, bất kỳ nơi nào Trung Quốc có ý định bồi đắp, xây dựng đảo nhân tạo trái phép thì đội tàu khai thác ngao đều xuất hiện ở đó trước tiên.
Trên thực tế, Trung Quốc sau khi dùng vũ lực cưỡng chiếm những bãi đá, rạn san hô thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam năm 1988 đã triển khai hoạt động bồi đắp trái phép quy mô lớn những thực thể này thành các đảo nổi nhân tạo, thiết lập trên đó các căn cứ quân sự lớn có cả sân bay với đường băng dài 3.000m và hải cảng nước sâu. Theo ước tính, các hoạt động phi pháp của Trung Quốc tại Biển Đông đã gây thiệt hại tới 98% diện tích san hô tại vùng biển này.
Trong đó hoạt động bồi lấp, xây dựng đảo nổi nhân tạo trái phép của Trung Quốc gây thiệt hại khoảng 14/15km2, hoạt động nạo vét của Trung Quốc gây thiệt hại khoảng 39/40km2, hoạt động nạo vét làm bến đỗ, kênh rạch cho tàu thuyền đi lại của Trung Quốc gây thiệt hại khoảng 2/3km2, và hoạt động khai thác trai khổng lồ của Trung Quốc gây thiệt hại khoảng 104/104km2.
Tham vọng độc chiếm Biển Đông đang biến Trung Quốc hành xử hung hăng, bất chấp luật pháp quốc tế ở vùng biển đóng vai trò sống còn với không chỉ các quốc gia, vùng lãnh thổ khác trong khu vực. Giáo sư John McManus sau khi bác bỏ lập luận của Trung Quốc cho rằng họ “chỉ xây dựng đảo nhân tạo trên các rạn san hô đã chết” đã khẳng định, chính các tàu khai thác trai khổng lồ của nước này là “thủ phạm cướp đi sự sống của các rạn san hô ở Biển Đông”. Những hoạt động hủy hoại hệ sinh thái ở bãi cạn Scarborough, Hoàng Sa và Trường Sa phần lớn là do Trung Quốc gây ra.
Điểm yếu chí mạng của Trung Quốc trên Biển Đông |
Đô đốc Mỹ tố Trung Quốc “nói một đằng làm một nẻo” ở Biển Đông |
"Biểu tượng" phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông |