Các doanh nghiệp cần thêm những chính sách hỗ trợ hơn để vượt qua khó khăn do đại dịch Covid – 19 gây ra. Trong đó, cần quan tâm đến các doanh nghiệp trụ cột, ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế để bốc đúng thuốc và có các chính sách hỗ trợ đúng mức.
Chọn đúng đối tượng để có hiệu quả cao
GS.TS Đặng Đình Đào, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển:
Trước ảnh hưởng của đại dịch covid – 19, Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp như giải pháp liên quan giãn thuế, giãn nợ, đáo hạn nợ, giảm lãi suất…Vì thế, thời gian tới cần ban hành các chính sách hỗ trợ đúng đối tượng hơn, nếu “đánh đồng” việc hỗ trợ thì không ngân sách nào chịu nổi. Thời gian qua, nhiều ý kiến của các doanh nghiệp, chuyên gia cho rằng cần hỗ trợ các doanh nghiệp lớn kéo dài thời gian gia hạn thuế. Đây là yêu cầu chính đáng của các doanh nghiệp. Chủ trương này là cần thiết, nhưng phải làm thận trọng, tránh lặp lại việc hỗ trợ người nghèo bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid – 19 nhưng lại rơi vào tay người giàu.
Điểm yếu của nước ta hiện nay là việc liên thông dữ liệu giữa các cơ quan còn hạn chế cho nên khó nắm được tình hình của các doanh nghiệp, tập đoàn lớn. Đã đến lúc phải tính toán đến xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu doanh nghiệp, để từ đó phân loại, đưa ra các chính sách đúng đối tượng hơn. Những doanh nghiệp khó khăn phải hỗ trợ họ là rất đúng vì có doanh nghiệp họ khó khăn thật sự. Ví dụ kéo dài thời gian giãn thuế cho doanh nghiệp là một giải pháp có tác dụng để doanh nghiệp có dòng tiền vượt qua khó khăn.
Mặt khác, các doanh nghiệp cũng phải chủ động vượt khó. Giờ đây sức bật của chính doanh nghiệp cũng cần phải mạnh hơn vì trong kinh doanh thường có rủi ro.
TS. Nguyễn Đình Cung, Thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng:
Chính phủ đã ban hành một loạt các giải pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, thể hiện tại Chỉ thị 11, Nghị định 41, Nghị định 42, Nghị quyết 84… Các giải pháp này về định hướng chính sách là phù hợp: giảm lãi vay và thuế phí, tăng thêm nguồn lực cho doanh nghiệp, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư kinh doanh, tăng cầu nội địa…
Trên thực tế, chẳng hạn với giảm thuế, chỉ doanh nghiệp vẫn còn doanh thu để nộp thuế mới được hưởng lợi chính sách gia hạn nộp thuế, còn những doanh nghiệp khó khăn đến mức không có doanh thu thì chính sách gia hạn thuế hay miễn thuế cũng không có ý nghĩa.
Bên cạnh đó, có những chính sách xét về ý nghĩa là rất tốt, xét về nguyên tắc là chặt chẽ để tránh trục lợi, nhưng những điều kiện để hưởng chính sách được đưa ra có thể tác dụng ngược. Đơn cử như điều kiện hỗ trợ cho những doanh nghiệp có 50% số lao động nghỉ việc, doanh nghiệp bị tổn hại 50% tài sản... thì khi doanh nghiệp ở tình trạng này coi như đã phá sản. Mục đích của chúng ta là hỗ trợ doanh nghiệp duy trì hoạt động, không để lao động mất việc, nhưng với điều kiện này, doanh nghiệp có thể cho lao động nghỉ nhiều hơn để hưởng lợi chính sách.
Hơn nữa, việc xác định thiệt hại cũng mất nhiều thời gian và thủ tục, trong khi doanh nghiệp cần hỗ trợ ngay để sớm phục hồi. Ngay như việc gia hạn thuế cũng chỉ trong 5 tháng, đến cuối năm doanh nghiệp vẫn phải nộp những khoản nợ này trong khi tình hình đang rất khó khăn và dự báo tới đây chuyện sản xuất, kinh doanh còn khó khăn hơn nữa. Đã vậy, nhiều giải pháp về tính pháp lý và tính hiệu lực chưa cao vì mới chỉ dừng ở công văn hướng dẫn, như việc tạm dừng quỹ hưu trí và tử tuất, lùi đóng phí công đoàn... Chính vì vậy, cần có thêm các giải pháp tăng nguồn lực cho doanh nghiệp, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư kinh doanh, tăng cầu nội địa.
Chính phủ nên hỗ trợ vào những ngành có tác động lớn đến kinh tế - xã hội và chịu thiệt hại nặng nhất từ dịch COVID-19 như: Hàng không, du lịch hoặc những ngành phải đóng cửa trong nhiều tháng, còn những ngành khác đã không đủ nguồn lực thì thôi. Như vậy, cần hỗ trợ cho các ngành này "ra tấm ra món" để doanh nghiệp có thể phục hồi nhanh chóng, còn như hiện nay, 98% doanh nghiệp được hưởng hỗ trợ nhưng vẫn không hiệu quả.
Tính toán giãn thuế dài hơi hơn
TS Phạm Hùng Tiến, Viện Friedrich Naumann Foundation:
Việt Nam có gói hỗ trợ của Chính phủ cho DN thông qua giãn, hoãn nợ, miễn thuế ngắn hạn. Việc giãn thuế bao lâu nên dựa vào chu trình sản phẩm, dịch vụ, vòng đời sản phẩm. Ngành nào đầu tư dài hạn, thì phải nới thêm thời gian giãn thuế cho họ. Có doanh nghiệp phải bỏ ra lượng vốn đầu tư ban đầu rất lớn, mức thuế phải đóng là rất cao. Họ đầu tư như vậy thì phải có tầm nhìn vài năm, hỗ trợ họ bằng cách kéo dài thời gian giãn thuế cũng là hợp lý.Nếu quyết liệt hơn có thể cân nhắc lập một quỹ để Chính phủ mua trái phiếu DN tư nhân một cách chọn lọc những lĩnh vực mà các nhà đầu tư tư nhân không giúp được, và cũng ít rủi ro dòng tiền. Ví dụ: mua cổ phiếu, trái phiếu một số doanh nghiệp du lịch nghỉ dưỡng, logistics, xử lý rác thải môi trường… Việc đang diễn ra tại T3 Tân Sơn Nhất hay ngân sách bỏ tiền làm một số tuyến cao tốc Bắc Nam thay vì làm bằng hình thức BOT là đã và đang thực hiện giải pháp như vậy.
Ông Lưu Đức Huy, Vụ trưởng Vụ Chính sách (Tổng cục Thuế):
Luật quản lý thuế quy định trường hợp ảnh hưởng đặc biệt Chính phủ được gia hạn nộp thuế nhưng không làm ảnh hưởng cân đối ngân sách đã được Quốc hội phê duyệt. Do đó, tùy từng khoản thuế, khoản thu, Bộ Tài chính đã đề nghị Chính phủ gia han để kết thúc năm 2020 không ảnh hưởng dự toán ngân sách.Nếu kéo dài hơn việc giãn thuế như nhiều đề nghị hiện nay là phương án cần báo cáo Quốc hội. Có Đại biểu Quốc hội đã nói nếu kéo dài hơn việc giãn thuế làm ảnh hưởng dự toán ngân sách thì phải báo cáo Quốc hội. Hoặc đợi năm tiếp theo Chính phủ gia hạn thêm đợt nữa, vừa đảm bảo hỗ trợ người nộp thuế, vừa đảm bảo quy định của pháp luật.
Hà Duy