Báo cáo việc làm hàng tháng vốn là chỉ số được theo dõi sát sao, nhưng càng trở nên nhạy cảm hơn sau khi Tổng thống Donald Trump hôm thứ Sáu sa thải quan chức đứng đầu Cục Thống kê Lao động Mỹ (BLS).

Ông Trump không tin dữ liệu việc làm, nhưng giới phân tích và Phố Wall thì có
Ông Trump không tin dữ liệu việc làm, nhưng giới phân tích và Phố Wall thì có

Ông Trump tuyên bố, số liệu việc làm tháng 6 bị “dàn dựng” nhằm khiến ông và các nghị sĩ Cộng hòa “trông tệ”, nhưng không đưa ra bằng chứng cụ thể.

Thậm chí, William Beach, người do chính ông Trump bổ nhiệm trong nhiệm kỳ đầu để giám sát cơ quan này cũng phản đối việc sa thải bà Erika McEntarfer, Giám đốc BLS, do cựu Tổng thống Joe Biden bổ nhiệm.

Các động thái này diễn ra sau khi báo cáo cho thấy thị trường lao động gần như đình trệ trong tháng 5 và 6, trùng với thời điểm ông Trump áp thuế diện rộng.

Mặc dù các đợt điều chỉnh dữ liệu tháng vừa qua là lớn bất thường, ở mức cao nhất ngoài thời kỳ suy thoái kể từ 50 năm qua, nhưng giới phân tích và các nhà đầu tư vẫn tin tưởng vào độ tin cậy của dữ liệu. Họ lưu ý rằng tỷ lệ phản hồi khảo sát sụt giảm kể từ COVID-19 khiến việc thu thập số liệu gặp khó khăn, nhưng không làm suy giảm độ chính xác tổng thể.

“Với tôi, tỷ lệ phản hồi thấp không phải là lý do để nghi ngờ độ tin cậy của số liệu”, chuyên gia kinh tế trưởng Omair Sharif, sáng lập công ty tư vấn Inflation Insights, nêu ý kiến.

Nhiều chuyên gia đã cảnh báo từ lâu rằng ngân sách hạn hẹp đang ảnh hưởng đến năng lực thu thập dữ liệu kinh tế của chính phủ. Một số ủy ban nghiên cứu giải pháp cải thiện phản hồi khảo sát từng được lập ra, nhưng đã bị chính quyền ông Trump giải thể đầu năm nay.

Cố vấn kinh tế Heather Boushey tại Nhà Trắng cho rằng, lẽ ra công chúng nên tập trung hơn vào thực tế rằng nền kinh tế đang chững lại.

“Chúng ta đang bị kéo vào cuộc tranh luận về những cáo buộc, làm lu mờ thông điệp mà dữ liệu thể hiện. Việc điều chỉnh dữ liệu theo hướng tiêu cực với quy mô lớn như vậy thường là tín hiệu xấu cho thị trường lao động”, bà nói.

Phố Wall vẫn tin vào số liệu, dù ông Trump công kích gay gắt

Phần lớn các chuyên gia nhận định, BLS là cơ quan độc lập, không chịu ảnh hưởng chính trị và được vận hành bởi đội ngũ có tiêu chuẩn chuyên môn cao. Người duy nhất có tính chính trị là Ủy viên (commissioner), nhưng họ cũng chỉ được xem dữ liệu hai ngày trước khi công bố chính thức.

Cựu Ủy viên BLS Erica Groshen (2013-2017) chia sẻ rằng bà từng đề xuất cách diễn đạt “sống động hơn” trong báo cáo, nhưng bị bác bỏ: “Nếu hỏi cái ly là nửa đầy hay nửa vơi, BLS sẽ nói: Đó là một cái ly 8 oz chứa 4 oz chất lỏng”.

Dữ liệu đã điều chỉnh mà ông Trump phản đối thực tế lại phù hợp hơn với các nguồn dữ liệu khác. Ví dụ, báo cáo của ADP - công ty xử lý bảng lương sử dụng dữ liệu từ hàng triệu khách hàng của mình để tính toán báo cáo việc làm của riêng mình - cũng ghi nhận sự chững lại mạnh mẽ trong tuyển dụng tháng 5 và 6, sát với số liệu đã điều chỉnh của BLS.

Tuy nhiên, ông Trump đặc biệt chỉ trích việc điều chỉnh dữ liệu tháng 5 và 6, từ mức tăng 144.000 xuống còn 19.000 (tháng 5), và từ 147.000 xuống 14.000 (tháng 6). Đây là những điều chỉnh định kỳ hàng tháng khi có thêm doanh nghiệp gửi số liệu hoặc hiệu chỉnh lại thông tin.

Ông Trump cũng nhắc lại cáo buộc sai lệch về đợt điều chỉnh dữ liệu thường niên tháng 8 năm ngoái, cho rằng nó được tung ra nhằm “hỗ trợ” Phó Tổng thống Kamala Harris trước bầu cử. Trên thực tế, bản điều chỉnh được công bố hai tháng trước bầu cử, và ghi nhận số việc làm thấp hơn thời kỳ Biden - Harris, phản ánh nền kinh tế yếu hơn.

Tại sao có sự điều chỉnh dữ liệu lớn như vậy?

Các điều chỉnh số liệu hàng tháng xảy ra do nhiều doanh nghiệp tham gia khảo sát của chính phủ gửi dữ liệu chậm hoặc điều chỉnh lại các số liệu đã nộp trước đó. Tỷ lệ doanh nghiệp gửi dữ liệu trễ đã tăng lên trong thập kỷ qua.

Hằng năm, BLS thực hiện thêm một lần điều chỉnh dựa trên số liệu việc làm thực tế lấy từ hồ sơ bảo hiểm thất nghiệp của các bang. Những số liệu này bao phủ khoảng 95% doanh nghiệp tại Mỹ và không được thu thập qua khảo sát, nhưng cũng không có sẵn theo thời gian thực.

Việc xác định số lượng việc làm mới được tạo ra hay mất đi mỗi tháng phức tạp hơn tưởng tượng. Ví dụ, nếu một người nhận thêm công việc thứ hai, liệu nên tập trung vào số lượng việc làm (tăng lên) hay số người có việc làm (không đổi)? (Chính phủ đo lường cả hai: Tỷ lệ thất nghiệp dựa trên số người có hoặc không có việc làm, trong khi số việc làm tăng/giảm được tính riêng).

Mỗi tháng, chính phủ khảo sát khoảng 121.000 doanh nghiệp và cơ quan chính phủ tại hơn 630.000 địa điểm, bao gồm cả nhiều chi nhánh của cùng một doanh nghiệp, chiếm khoảng một phần ba lực lượng lao động toàn quốc.

Tuy nhiên, chính phủ vẫn phải đưa ra các ước tính. Nếu một doanh nghiệp phá sản, họ gần như chắc chắn sẽ không nộp biểu mẫu báo cáo số việc làm bị mất. Còn các doanh nghiệp mới thì sao? Có thể phải mất một thời gian trước khi họ được ghi nhận vào hệ thống của chính phủ.

BLS tìm cách nắm bắt các xu hướng này bằng cách ước tính tác động của chúng đến việc làm. Dĩ nhiên, các ước tính này có thể sai cho đến khi được điều chỉnh qua các đợt rà soát hằng năm.

Các điều chỉnh thường lớn hơn vào những thời điểm bước ngoặt của nền kinh tế. Ví dụ, khi nền kinh tế tăng trưởng mạnh, có thể có nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp hơn so với dự đoán của chính phủ, dẫn đến điều chỉnh tăng. Ngược lại, nếu kinh tế chững lại hoặc rơi vào suy thoái, các điều chỉnh có thể nghiêng về hướng giảm mạnh hơn.

Ernie Tedeschi, cố vấn kinh tế của chính quyền Biden, cho rằng điều này xuất phát từ bối cảnh hiện tại của thị trường lao động, khi cả việc tuyển dụng lẫn sa thải đều giảm mạnh, và ngày càng ít người Mỹ nghỉ việc để chuyển sang công việc khác. Do đó, phần lớn số việc làm tăng hoặc giảm mỗi tháng nhiều khả năng đến từ các doanh nghiệp mới thành lập hoặc các công ty đóng cửa.

Và chính những đối tượng này là phần được chính phủ ước tính bằng mô hình, khiến số liệu dễ biến động hơn.

Cựu Ủy viên Groshen cũng lưu ý rằng kể từ sau đại dịch, đã có làn sóng các công ty khởi nghiệp mới, do nhiều người Mỹ mất việc hoặc muốn tìm kiếm sự tự chủ hơn. Tuy nhiên, những doanh nghiệp này có thể không tạo ra nhiều việc làm như các startup trước thời COVID-19, gây sai lệch cho các mô hình tính toán của chính phủ.

Theo các chuyên gia kinh tế tại Goldman Sachs, các điều chỉnh đối với dữ liệu việc làm tháng 5 và 6, giảm tổng cộng 258.000 việc làm, là mức điều chỉnh lớn nhất ngoài thời kỳ suy thoái kể từ năm 1967.

Kevin Hassett, cựu cố vấn kinh tế hàng đầu của Tổng thống Trump, phát biểu trên chương trình “Meet the Press” của NBC hôm Chủ nhật rằng: “Những năm gần đây, chúng ta chứng kiến các đợt điều chỉnh cực lớn đối với số liệu việc làm”.

Vị này cho rằng nguyên nhân chính là do tỷ lệ phản hồi với các khảo sát của chính phủ sụt giảm mạnh trong và sau đại dịch: “Khi COVID-19 xảy ra, tỷ lệ phản hồi giảm đáng kể, dẫn đến tỷ lệ điều chỉnh tăng vọt”.

Tuy nhiên, theo tính toán của Tedeschi, dù các điều chỉnh có tăng mạnh sau đại dịch, nhưng hiện tại chúng đã giảm trở lại và nhỏ hơn nhiều so với giai đoạn thập niên 1960 và 1970.

Những lo ngại khác về dữ liệu

Nhiều chuyên gia kinh tế và thống kê từ lâu đã cảnh báo về tình trạng tỷ lệ phản hồi đối với các cuộc khảo sát của chính phủ ngày càng giảm. Cách đây một thập kỷ, khoảng 60% doanh nghiệp được BLS khảo sát có phản hồi. Hiện nay, con số đó chỉ còn khoảng 40%.

Tình trạng suy giảm này không chỉ xảy ra ở Mỹ, mà còn mang tính toàn cầu, đặc biệt là kể từ sau đại dịch COVID-19. Vương quốc Anh thậm chí đã tạm dừng công bố tỷ lệ thất nghiệp chính thức do tỷ lệ phản hồi sụt giảm.

Đầu năm nay, BLS cho biết họ buộc phải cắt giảm quy mô thu thập dữ liệu lạm phát vì chính sách đóng băng tuyển dụng dưới thời chính quyền Trump, làm dấy lên lo ngại về độ chính xác của dữ liệu giá cả trong bối cảnh các chuyên gia đang cố gắng đánh giá tác động của thuế quan đối với lạm phát.

Theo một báo cáo từ Hiệp hội Thống kê Mỹ công bố vào tháng 7, các cơ quan thống kê của chính phủ Mỹ đã chứng kiến mức sụt giảm 16% ngân sách (đã điều chỉnh theo lạm phát) kể từ năm 2009.

“Chúng ta đang ở điểm nút quan trọng. Để ứng phó với các thách thức hiện tại và tương lai, cần có những khoản đầu tư thận trọng và có kế hoạch rõ ràng… Trong khi thực tế là chúng ta đang chứng kiến những khoản cắt giảm rời rạc, thiếu định hướng, và không có kế hoạch cho tương lai”, báo cáo nhận định.

 https://thoibaonganhang.vn/ong-trump-khong-tin-du-lieu-viec-lam-nhung-gioi-phan-tich-va-pho-wall-thi-co-168323.html

Ngày đăng: 10:11 | 05/08/2025

Đại Hùng / thoibaonganhang.vn