Với tiềm năng tăng trưởng lớn, sự tham gia của các doanh nghiệp công nghệ và hành lang pháp lý đang dần hoàn thiện, cho vay ngang hàng (P2P lending) có thể trở thành một kênh huy động vốn quan trọng, thúc đẩy tài chính toàn diện, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa bứt phá. Tuy nhiên, bài học từ các thị trường đi trước cho thấy, chỉ khi rủi ro được kiểm soát và niềm tin của nhà đầu tư - người vay được củng cố, mô hình này mới có thể phát triển bền vững, đóng góp cho nền kinh tế số Việt Nam.

Thoát khỏi “vùng xám” pháp lý

Theo IMARC Group, quy mô thị trường cho vay ngang hàng Việt Nam đạt 5,5 tỷ USD năm 2024 và có thể chạm mốc 52,7 tỷ USD vào năm 2033, với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) 10,2%. Tiềm năng được thúc đẩy bởi dân số hơn 100 triệu người, trong đó 68% ở độ tuổi lao động, thu nhập bình quân đầu người năm 2024 đạt khoảng 4.700 USD, cùng xu hướng tiêu dùng dịch vụ tài chính số ngày càng tăng. Đặc biệt, 98% doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa - nhóm thường khó tiếp cận vốn ngân hàng do thiếu tài sản đảm bảo hoặc lịch sử tín dụng đang trở thành đối tượng khách hàng quan trọng của cho vay ngang hàng.

Hướng tới thị trường cho vay ngang hàng lành mạnh
Cho vay ngang hàng có thể trở thành một kênh huy động vốn quan trọng, thúc đẩy tài chính toàn diện, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa bứt phá

Cho vay ngang hàng hiểu là hoạt động được thiết kế và xây dựng trên nền tảng ứng dụng công nghệ số để kết nối trực tiếp người đi vay với người cho vay mà không thông qua các tổ chức trung gian tài chính. Toàn bộ hoạt động phê duyệt khoản vay, giải ngân, hay trả nợ giữa người đi vay và người cho vay được thực hiện trên nền tảng giao dịch trực tuyến của các công ty cho vay ngang hàng, được lưu trữ bằng các bảng ghi điện tử, số hóa trên hệ thống cơ sở dữ liệu của công ty.

Như vậy, có thể thấy, các công ty cho vay ngang hàng không sử dụng chênh lệch giữa lãi suất huy động vốn và cho vay làm lợi nhuận như các ngân hàng, thay vào đó là phí quản lý từ việc xếp hạng tín dụng, phân loại mức độ rủi ro, đăng ký tài khoản. Vì vậy, so với mô hình ngân hàng truyền thống thì lãi suất của nhà đầu tư sẽ tăng lên, đồng thời lãi suất của người đi vay và chi phí giao dịch sẽ giảm.

Trước đây, do thiếu các quy định về giấy phép, vốn điều lệ, giới hạn lãi suất, nghĩa vụ minh bạch... nên không ít nền tảng cho vay ngang hàng dù không phải/không trực thuộc ngân hàng, cũng không phải công ty tài chính, nhưng vẫn hoạt động rầm rộ trong vùng “xám” pháp lý. Một số nền tảng thực hiện thu tiền, sau đó không rót vốn đúng cam kết, hoặc đầu tư sai mục đích. Lĩnh vực này cũng thiếu bộ tiêu chuẩn chung về xếp hạng tín dụng, phương pháp thẩm định, cơ chế bảo vệ người dùng.

Theo ông Phạm Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Thanh toán, vừa qua Nghị định 94/2025/NĐ-CP được Chính phủ ban hành nhằm cụ thể hóa Luật các Tổ chức tín dụng (sửa đổi) năm 2024, đánh dấu bước đi đầu tiên trong việc xây dựng khuôn khổ pháp lý cho cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) trong lĩnh vực ngân hàng, trong đó có lĩnh vực cho vay ngang hàng.

Số liệu thống kê từ Vụ Thanh Toán cho thấy, số lượng các công ty Fintech hoạt động tại Việt Nam đã gia tăng nhanh chóng từ khoảng 40 công ty vào cuối năm 2016 lên đến trên 200 công ty ở thời điểm hiện tại với nhiều mảng, lĩnh vực hoạt động khác nhau như thanh toán, cho vay ngang hàng, chấm điểm tín dụng, quản lý tài chính cá nhân.

Sau Nghị định 94/2025/NĐ-CP, NHNN mới đây cũng đã có động thái tạo lập môi trường, điều kiện thử nghiệm cho vay ngang hàng. Cụ thể, NHNN ban hành Quyết định số 2866/QĐ-NHNN quy định về dư nợ tối đa đối với một khách hàng vay tại một đơn vị cho vay ngang hàng là 100 triệu đồng, đồng thời tổng dư nợ của khách hàng tại tất cả các đơn vị cho vay ngang hàng là 400 triệu đồng, nhằm giới hạn tổn thất tài chính bên cho vay và người đi vay, góp phần ổn định hệ thống tài chính.

Đồng thời, NHNN cũng ban hành Quyết định số 2970/QĐ-NHNN, quy định hướng dẫn về việc kết nối, báo cáo và kiểm tra thông tin tín dụng của khách hàng giữa các công ty cho vay ngang hàng và Trung tâm Thông tin Tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC). Quy định này giúp các công ty cho vay ngang hàng có cơ sở quản lý dư nợ tối đa của một khách hàng tại nền tảng của mình cũng như tại các nền tảng khác. Mặt khác, các công ty cho vay ngang hàng có thể có thêm thông tin về bên đi vay để cung cấp cho bên cho vay (khi được sự chấp thuận của bên đi vay theo quy định pháp luật hiện hành), góp phần nâng cao chất lượng khoản vay.

Để hoạt động cho vay ngang hàng không chệch hướng

Theo TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính - tiền tệ Quốc gia, cho vay ngang hàng là kênh bổ sung vốn hữu hiệu, nhất là với cá nhân và doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên, rủi ro tín dụng, pháp lý và công nghệ là rất lớn. Do vậy, việc NHNN đặt ra khuôn khổ kiểm soát ngay từ đầu là bước đi cần thiết để thị trường phát triển lành mạnh. 2 quyết định này của NHNN được xem là bước đi thiết thực góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện, đồng thời khẳng định vai trò của cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong việc phát triển thị trường công nghệ tài chính tại Việt Nam.

Nhìn từ bài học phát triển thị trường cho vay ngang hàng tại Trung Quốc, có thể thấy thị trường này đã trải qua giai đoạn phát triển bùng nổ từ năm 2007-2018. Khi vừa xuất hiện, P2P lending được kỳ vọng sẽ trở thành một “sáng kiến tài chính” phục vụ mục tiêu tài chính toàn diện, giúp người dân ở các khu vực nông thôn và thuộc nhóm không tiếp cận được tín dụng truyền thống có cơ hội vay vốn dễ dàng hơn.

Tuy nhiên, sự phát triển của thị trường này dần đi chệch hướng. Do lợi nhuận khổng lồ từ hoạt động cho vay, không ít doanh nghiệp đã tự ý chuyển đổi thành trung gian tín dụng, trực tiếp cung cấp các dịch vụ tài chính và trở thành bên cho vay thực sự thông qua nhiều thủ thuật lách luật. Điều này dẫn đến hàng loạt hệ lụy như gian lận, lừa đảo, huy động vốn bất hợp pháp và gây ra thiệt hại lớn cho người dân.

Vì vậy, theo các chuyên gia, đối với việc tạo lập hành lang pháp lý cho thị trường cho vay ngang hàng tại Việt Nam, đồng thời cần kiểm soát thị trường này chặt chẽ để hướng tới sự phát triển lành mạnh.

Đối với người vay, cần phải lưu ý lãi suất thực tế khi vay thông qua các nền tảng, vì lãi suất được công bố có thể thấp nhưng các nền tảng cộng thêm các khoản phí dịch vụ ẩn, phí phạt trễ hạn... mới ra lãi suất thực tế. Một số nền tảng hứa hẹn thủ tục dễ, giải ngân nhanh, nhưng phạt cực nặng nếu trễ hạn dù chỉ một ngày, cũng như các khoản phí hồ sơ, phí xử lý, phí giải ngân... thường không được nêu rõ lúc đăng ký vay, vì vậy người vay cần đọc kỹ các điều khoản trong hợp đồng.

Ngoài ra, khách hàng vay cần kiểm tra xem nền tảng có đăng ký hoạt động rõ ràng, có địa chỉ thật, có hotline hỗ trợ hay không, tránh vay từ ứng dụng lạ không rõ nguồn gốc, đặc biệt cần bảo mật thông tin cá nhân, không nên cung cấp ảnh căn cước công dân, danh bạ điện thoại, thông tin tài khoản ngân hàng cho những ứng dụng lạ. Tuyệt đối không đứng tên vay hộ bạn bè, người quen qua nền tảng cho vay ngang hàng, vì người ký hợp đồng vay chính là người chịu trách nhiệm pháp lý cuối cùng.

Đối với các tổ chức cung cấp dịch vụ cho vay ngang hàng, PGS.TS Nguyễn Hữu Huân, trường Đại học kinh tế TP. Hồ Chí Minh khuyến nghị, bản chất của mô hình này là mang tiền lên sàn cho người lạ vay nên không nhà đầu tư nào dám làm dù lợi nhuận đầu tư có cao đến mấy. Chính vì vậy mà vấn đề đặt ra cho các công ty thử nghiệm mô hình cho vay ngang hàng là đánh giá tín nhiệm người đi vay như thế nào, ai sẽ đòi nợ, phương thức đòi nợ cũng như lãi suất cho vay ra sao.

Đồng thời, công ty triển khai cho vay ngang hàng cần phải công khai mô hình hoạt động, công khai lãi suất, biểu phí và các điều kiện phạt rõ ràng, dễ hiểu, cấm các điều khoản “ẩn” hoặc đánh lừa người dùng.

https://thoibaonganhang.vn/huong-toi-thi-truong-cho-vay-ngang-hang-lanh-manh-170586.html

Ngày đăng: 13:55 | 23/09/2025

Quỳnh Trang / thoibaonganhang.vn