Các vị tướng Quân giải phóng tỏ rõ tài thao lược khiến phòng tuyến Tây Nguyên của quân địch thất thủ, tạo bước ngoặt bất ngờ đối với cục diện cuộc chiến.
Tháng 3/1975, giữa núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ, một ván cờ sinh tử đã diễn ra. Đó không chỉ là một trận chiến thông thường, mà là cuộc đấu trí đầy kịch tính giữa những bộ óc quân sự lỗi lạc của Quân đội nhân dân Việt Nam, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tiêu biểu là tướng Hoàng Minh Thảo - Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên.
Đối đầu với tướng Hoàng Minh Thảo là tướng Phạm Văn Phú - Tư lệnh Quân đoàn II Việt Nam Cộng hòa (VNCH), với thử thách lớn nhất trong sự nghiệp: giữ vững Tây Nguyên trước một đối thủ quá đỗi khó lường.

Tướng Hoàng Minh Thảo (bên trái) - Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên đối đầu tướng Phạm Văn Phú - Tư lệnh Quân đoàn II Việt Nam Cộng hòa
Vì sao chọn Tây Nguyên?
Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị về giải phóng miền Nam trong năm 1975, Bộ Chính trị, trực tiếp là Quân ủy Trung ương đã quyết định mở Chiến dịch Tây Nguyên (mang mật danh A 275), nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng các tỉnh Đắk Lắk, Phú Bổn, Quảng Đức, thực hiện chia cắt và tạo thế chiến lược mới trên chiến trường toàn miền Nam.
Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên do Trung tướng Hoàng Minh Thảo làm Tư lệnh, Đại tá Đặng Vũ Hiệp làm Chính ủy. Bộ phận đại diện của Quân ủy và Bộ tổng Tư lệnh do Đại tướng Văn Tiến Dũng chủ trì được đặt tại Tây Nguyên để trực tiếp chỉ đạo chiến dịch.
Thời điểm Hoàng Minh Thảo nhận chức Tư lệnh chiến dịch, Bộ Thống soái tối cao đã quyết định chọn mục tiêu chủ yếu trong Chiến dịch Tây Nguyên là Buôn Ma Thuột song thực ra để đi đến quyết định này, Tổng hành dinh đã tham khảo ý kiến nhiều tướng lĩnh, trong đó có ông.
Trong Hồi ký "Chiến đấu ở Tây Nguyên", Tướng Hoàng Minh Thảo kể: "Về vấn đề này, năm 1973 trong một dịp gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp tôi đã có đề xuất, vì đánh Kon Tum thì không phát triển được, đánh Pleiku thì địch còn mạnh, chỉ Buôn Ma Thuột là địch yếu và sơ hở phòng bị".
Nằm ở trung tâm Nam Tây Nguyên, Buôn Ma Thuột có khoảng cách khá đều tới Bắc Tây Nguyên, đồng bằng Nam Trung Bộ và miền Đông Nam Bộ, là nơi giao nhau của mấy con đường.

Bộ đội hành quân diệt địch trong chiến dịch Tây Nguyên. (Ảnh tư liệu TTXVN)
Tây Nguyên có vị trí chiến lược quan trọng, nhưng điểm yếu cốt tử là nhiều núi cao hiểm trở, hệ thống giao thông kém phát triển, địch cơ động lực lượng chủ yếu dựa vào một số trục đường chính (14, 19, 21, 7...).
Khi các trục đường này bị cắt và “khóa chặt” thì Tây Nguyên bị cô lập, tách rời khỏi vùng đồng bằng Nam Trung Bộ và cả chiến trường miền Nam, duy nhất còn lại đường không để địch chi viện, ứng cứu.
Trong khi đó, ta hoàn toàn có đủ khả năng và điều kiện phát huy sở trường triển khai thế trận vận động tiến công tiêu diệt từng bộ phận lực lượng quân địch. Nếu ta làm chủ được Tây Nguyên sẽ khống chế được một vùng rộng lớn, bao gồm đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ, Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia, tạo được thế đứng chân vững chắc để phát triển thế tiến công xuống Sài Gòn-Gia Định; phát triển xuống các tỉnh ven biển miền Trung.
Việc lựa chọn hướng mở đầu vào Tây Nguyên còn thuận lợi cho ta triển khai thế tiến công chiến lược.
Sau thắng lợi giải phóng tỉnh Phước Long, Bộ Chính trị và Thường vụ Quân ủy Trung ương quyết định chọn hướng tiến công chính là Nam Tây Nguyên, mục tiêu chủ yếu, trận mở đầu là đánh và giải phóng Buôn Ma Thuột.
Chọn Nam Tây Nguyên và Buôn Ma Thuột làm hướng và mục tiêu tiến công chủ yếu, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược, chiến dịch trong chiến tranh.
Cùng với đó, việc xây dựng lực lượng, chuẩn bị chiến trường được tiến hành khẩn trương. Tháng 6/1974, Đảng ủy Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên ra Nghị quyết xây dựng khối chủ lực Tây Nguyên thành binh đoàn chiến dịch, có khả năng tác chiến hiệp đồng binh chủng, có sức cơ động cao.
Về lực lượng, thành lập trung đoàn pháo binh ở các sư đoàn; lực lượng pháo binh của mặt trận được tổ chức thành 2 trung đoàn hoàn chỉnh; lực lượng phòng không được tổ chức lại thành 2 trung đoàn (234, 575); thành lập Trung đoàn Đặc công 198, Trung đoàn Xe tăng 273 và Trung đoàn Thông tin 29. Đồng thời, đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, đặc biệt là thành lập một số quân đoàn chủ lực.
Về hậu cần, kỹ thuật, được tổ chức theo hướng bảo đảm khả năng tác chiến tập trung quy mô lớn, có sức cơ động cao, dưới sự chỉ đạo của Bộ Tổng Tham mưu.
Trong cuốn “Chiến dịch Tây Nguyên đại thắng” do NXB Quân đội n\Nhân dân xuất bản năm 2004, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo nhận định: “Ta ghìm địch ở Bắc Tây Nguyên để phá vỡ địch ở đầu yếu là Nam Tây Nguyên. Đó là một thành công trong nghệ thuật dùng mưu”.
Sai lầm chí mạng: Khi tướng Phú chọn con đường chết
Trong khi lực lượng của ta khẩn trương chuẩn bị cho Chiến dịch Tây Nguyên thì ở phía bên kia, đầu tháng 11/1974, chính quyền Sài Gòn bổ nhiệm Phạm Văn Phú làm Tư lệnh Quân đoàn II (Vùng II chiến thuật). Tư lệnh Quân đoàn II luôn được mệnh danh là “Tướng Biên Khu”-một nơi khó khăn. Đối với tướng Phú, đây còn là địa bàn lạ lẫm.

Tướng Phạm Văn Phú (bên phải) và Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu dự tiệc tại Quân đoàn II - Ảnh: TL
Tháng 12/1974, Phú được triệu tập về dinh “Độc lập” dự hội nghị quân sự cấp cao bàn kế hoạch tác chiến trên quy mô “toàn quốc” của năm 1975.
Cuộc họp do Nguyễn Văn Thiệu-Tổng thống kiêm Tổng tư lệnh quân lực chủ trì với sự có mặt của Đại tướng Trần Thiện Khiêm-Thủ tướng, Đại tướng Cao Văn Viên-Tổng Tham mưu trưởng, Trung tướng Đặng Văn Quang - Chủ tịch Ủy ban tình báo Quốc gia kiêm Chỉ huy trưởng Trung tâm điều hành Hiệp định Ba lê; bốn viên Tư lệnh Quân đoàn-Quân khu là Ngô Quang Trưởng, Phạm Văn Phú, Dư Quốc Đống và Nguyễn Vĩnh Nghi.
Do đã trao đổi kỹ với quan thầy Mỹ và đã có cuộc họp riêng với Khiêm, Viên, Quang, Nguyễn Văn Thiệu khai mạc cuộc họp với những nhận định đầy sáng sủa về “hiện tình đất nước”; tâng bốc kế hoạch do Bộ Tổng tham mưu đệ trình về bố trí lực lượng trên toàn chiến trường theo thế “mạnh ở hai đầu” là hoàn toàn đúng đắn.
Tiếp đó, Thiệu đi sâu phân tích tình hình rồi phán đoán: “Trong năm 1975, Bắc Việt chưa đủ sức đánh lớn. Khả năng của họ hiện nay chỉ cho phép đánh lớn hơn năm 1974 - tức là nhỏ hơn 1968 và 1972”.
Thiệu cũng dự đoán địa bàn tiến công của quân Giải phóng trong năm 1975 sẽ là Quân khu 3.
Để tỏ ra dân chủ, Thiệu ngỏ ý muốn biết ý kiến của Phú. Phú e ngại đứng lên:
- Thử đặt ngược lại vấn đề: Nếu tai họa năm 1972 vẫn tái diễn thì về mặt chiến lược, Cao Nguyên là địa bàn rất quan trọng với đối phương, từ đây có nhiều thế lợi để cơ động phát triển về phía Nam theo đường 14, hoặc xuống phía Đông theo các đường 19, 7 và 21.
-Nếu đánh Cao Nguyên, họ sẽ đánh vào đâu?- Thiệu lại hỏi.
- Chắc chắn họ sẽ đánh Pleiku. Mất Pleiku, Kon Tum thì Buôn Ma Thuột và toàn bộ Cao Nguyên sẽ mất luôn.
Thiệu quay lại, đến trước bản đồ bố trí binh hỏa lực, đập tay vào những con số:
- Ông có hai sư đoàn bộ binh, nhưng lại có hai sư đoàn không quân với 138 máy bay chiến đấu, có 382 khẩu pháo và 477 xe tăng và thiết giáp…Vả lại muốn chiếm đánh Cao Nguyên, họ phải tính đến chuyện có chọc thủng được “bức tường thép” của tướng Trưởng ở Quân khu 1 hay không chứ?
Trước khi trở về bản doanh ở Pleiku, Phú còn được Thiệu nhắc nhở riêng:
- Ý kiến của tôi là ý kiến của người Mỹ. Người Mỹ cho rằng trong năm tới, giỏi lắm đối phương cũng chỉ gặm được vài thị xã nhỏ như An Lộc, Gia Nghĩa. Họ chưa đủ sức nhai nổi các thị xã lớn như Tây Ninh, Buôn Ma Thuột, Pleiku…
Vì tin người Mỹ nên Phú tin lời Thiệu và vì thế về tới Pleiku, tướng Phú tỏ ra chủ quan.
Quân giải phóng đánh chiếm Bộ tư lệnh Sư đoàn 23
Cú ra đòn sấm sét
Thị xã Buôn Ma Thuột, tỉnh lỵ tỉnh Đắk Lắk với 150.000 dân, là nơi địch đặt sở chỉ huy của Sư đoàn 23 Việt Nam Cộng hòa.
Đầu tháng 2/1975, dưới sự chỉ huy của Tư lệnh Hoàng Minh Thảo, các đơn vị quân chủ lực của ta tăng cường cho Chiến dịch Tây Nguyên đến các vị trí tập kết. Quân của ta tiến hành hoạt động nghi binh ngày càng mạnh ở Bắc Tây Nguyên.
Thế nhưng, đến giữa tháng 2, tướng Phạm Văn Phú và thuộc hạ của ông ta vẫn nhận định: “Nếu quân Giải phóng đánh vào Tây Nguyên thì nơi ấy là Pleiku-đại bản doanh của Bộ Tư lệnh Quân đoàn II”.
Chúng cho rằng, năm 1975 ta chưa đủ sức; không khắc phục được địa hình, thời tiết và bảo đảm hậu cần để đánh lớn vào các thị xã và thành phố lớn như Buôn Ma Thuột, hoặc ta có đánh thắng cũng không giữ được khi chúng phản kích chiếm lại.
Vì thế, Buôn Ma Thuột tuy là một vị trí xung yếu, nhưng địch có nhiều sơ hở và càng vào trong thị xã, lực lượng chúng càng mỏng. Đối với ta, giải phóng được Buôn Ma Thuột thì sẽ đập vỡ được hệ thống phòng ngự của địch ở Tây Nguyên, tạo ra một thế trận hiểm mới, có thể làm thay đổi nhanh chóng cục diện chiến trường.
Trong khi đó, từ nhận định của tướng quân đội Việt Nam Cộng hòa Phạm Văn Phú, lực lượng chính yếu của Quân đoàn địch đều được bố trí tập trung ở Pleiku, dù lúc đó cũng có người nhắc tướng Phú hãy chú ý Buôn Ma Thuột.
Mũi tiến quân của quân giải phóng vào thị xã Buôn Ma Thuột (Ảnh Bảo tàng Đắk Lắk).
Từ ngày 4 đến 9/3, quân ta đánh địch trên nhiều địa điểm ở Bắc Tây Nguyên. Ngày 9/3/1975, thế chiến lược bao vây, chia cắt Buôn Ma Thuột đã được quân ta cài xong. Sư đoàn 10 (Quân đoàn 3) đánh quận lỵ Đức Lập, căn cứ Núi Lửa, cứ điểm 22 của địch.
Trước tình hình khẩn cấp, tướng Phạm Văn Phú bay từ Nha Trang lên Buôn Ma Thuột, họp với Tư lệnh Sư đoàn 23 bộ binh, các tiểu khu trưởng Buôn Ma Thuột và Quảng Đức từ 12h đến 17h để đánh giá tình hình.
Theo lệnh Phạm Văn Phú, Liên đoàn 2 Biệt động quân của mặt trận Kon Tum được đổ bằng máy bay xuống Buôn Hồ ngay chiều 9/3. Khoảng 18h ngày 9/3, Phạm Văn Phú bay từ Buôn Ma Thuột về thẳng Pleiku trong tâm trạng bồn chồn, lo lắng, hút thuốc lá liên miên.
Đến 21h, khi nhận được báo cáo Liên đoàn 21 Biệt động quân tăng cường cho mặt trận Buôn Ma Thuột đã được trực thăng bốc từ Bắc Kon Tum thả xuống Buôn Hồ, Phạm Văn Phú mới thở phào và nói một mình: “May ra thì... còn kịp!”.
Từ 1h55 ngày 10/3/1975, quân ta đồng loạt tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột. Đến 11h ngày 11/3, quân ta đánh chiếm Sở Chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy, mục tiêu cuối cùng trong thị xã này.
Theo lệnh của Tổng thống Thiệu, ngày 12/3, tướng Phú quyết định đổ quân tăng viện tái chiếm Buôn Ma Thuột. 8h sáng, một lực lượng trực thăng khổng lồ gồm 46 chiếc HU1B và Chinook được sử dụng để bốc Trung đoàn 45 bộ binh và bộ phận Sư đoàn 23 từ căn cứ Hàm Rồng (Pleiku) sang Buôn Ma Thuột.
Bộ đội ta đánh chiếm kho Mai Hắc Đế (Ảnh: Bảo tàng Đắk Lắk).
Ngày 13/3, cuộc đổ quân của địch sang ngày thứ hai. Toàn bộ các phi đoàn trực thăng ở Đà Nẵng và Cần Thơ với khoảng hơn 100 chiếc đủ loại được đưa vào phục vụ hoạt động này.
Ngay đợt đầu ngày của ngày 13/3, Bộ Chỉ huy nhẹ của Sư đoàn 23 bộ binh và Trung đoàn 45 được đổ xuống Phước An. Theo lệnh của Sài Gòn, tòa Hành chánh lưu động Buôn Ma Thuột do Đại tá Trịnh Tiếu-Trưởng phòng nhì Quân đoàn II tình nguyện làm Tỉnh trưởng Buôn Ma Thuột cũng được thả xuống Phước An cùng đoàn quân tăng viện tái chiếm Buôn Ma Thuột.
Việc địch tập trung lực lượng tái chiếm Buôn Ma Thuột không nằm ngoài dự kiến của Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên và tướng Hoàng Minh Thảo.
Từ ngày 12 đến 18/3, quân ta đã đập tan hoàn toàn cuộc phản kích của địch, tiêu diệt toàn bộ Sư đoàn 23 - đơn vị được quân đội Sài Gòn suy tôn là “Nam bình, Bắc phạt, Cao nguyên trấn”.
Pháo của ta đánh vào thị xã Buôn Ma Thuột (Ảnh Bảo tàng Đắk Lắk).
Ở Pleiku, ngày 14/3/1975, tin tức đầu tiên đến với Phạm Văn Phú là Liên đoàn 4 Biệt động quân phòng thủ mặt trận Nam Pleiku đêm hôm trước bị đánh, thiệt hại khá nặng.
Từ mờ sáng, phi trường Cù Hanh bị pháo kích. 9h sáng, Phạm Văn Phú nhận được điện từ Văn phòng Tổng thống Thiệu triệu tập khẩn Tư lệnh Quân đoàn II xuống họp tại Cam Ranh.
9h30, Phạm Văn Phú bay trên chiếc C47 từ Pleiku đi Cam Ranh. Cuộc họp tại tòa Bạch Dinh (Cam Ranh) từ 11h32 đến 13h29 cùng ngày, Phạm Văn Phú được lệnh của Tổng thống Thiệu cho lực lượng quân sự của Quân đoàn II rút bỏ Pleiku và Kon Tum theo đường số 7 (tạo thế bất ngờ) để rút về phòng thủ và bảo vệ những tỉnh đông dân cư vùng Duyên hải.
Đây là mật lệnh mà từ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng trở xuống không được biết. Có nghĩa là các lực lượng địa phương quân, các cơ sở hành chính của 3 tỉnh Kon Tum, Pleiku, Phú Bổn vẫn tiếp tục làm việc với các tỉnh trưởng, quận trưởng như thường lệ.

Trong đêm 14 ngày 15/3, Sư đoàn 6 không quân liên tục vận chuyển số sĩ quan và gia đình họ về Nha Trang. Pleiku hỗn loạn. Sáng Chủ nhật ngày 16/3, binh lính địch mới được lệnh rút khỏi thị xã.
Về phía ta, chiều 15/3, cơ quan đại diện Bộ Tổng Tư lệnh tại Mặt trận thông báo cho Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên: “Khả năng địch rút chạy khỏi Kon Tum và Pleiku”. 19h ngày 16/3, đồng chí Văn Tiến Dũng chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên: “Địch đã rút chạy theo đường số 7, tổ chức truy kích ngay”.
Đêm 16/3, lực lượng của Sư đoàn 320 đốt nứa khô soi đường, chạy bộ cùng xe cơ giới khẩn trương triển khai địa hình chiến đấu chặn đánh địch trên đường số 7.
Ngày 3/4/1975, toàn bộ Tây Nguyên được giải phóng. Với thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên, cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt, để kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Ngày đăng: 18:30 | 11/03/2025
Nhóm phóng viên / VTC News